Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

TRÁI TIM CAO CẢ



Mặc dù trong họ hàng nhà tôi có nhiều người đã chết trong cuộc chiến tranh  Quốc – Cộng hoặc vì lý do khác. Tôi đã chứng kiến thân xác của họ khi đem về mai táng không còn nguyên vẹn . Có người khi chết chỉ còn là những miếng thịt vụn  trộn lẫn máu và đất cùng với màu khói hung thuốc nổ của một quả mìn . Có người khi gia đình chôn cất chỉ có một thân không có đầu, bởi chiếc đầu đã để lại một góc nào trên chiến trường, không thể tìm thấy sau một trận đánh sáp lá càvới vũ khí chỉ toàn là mã tấu và mìn claymore. Cũng có những người chết trên giường bệnh sau cơn bệnh hành hạ thân xác đau đớn hơn 10 năm…   Nhưng thú thật, tôi ít khi có những cú sốc như lần mẹ tôi qua đời. Mẹ tôi mất tôi vừa đến tuổi 40 tuổi, cái tuổi có cuộc sống ngoài xã hội tương đối chửng chạc về mọi  mặt ( theo quan niệm của đa số người lớn tuổi ở quê tôi) và tôi cũng đã cảm thấy điều đó đúng phần nào qua cá nhân của tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn bất lực trước một huống tình cảm thiêng liêng nghiệt ngã, và đã tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ vượt qua nổi cú sốc ấy. Tôi quá xúc động mỗi khi nghĩ  tới  người.. Tôi vẫn biết “ Sinh, Lão Bệnh Tử” đó là qui luật của tạo hóa, nhưng tâm hồn của tôi không thể lặng yên và khó chấp nhận định luật nầy khi nghĩ đến cái chết của mẹ tôi. Cơn đau về tinh thần  đã hành hạ người tôi suốt nhiều năm. 
 Khi mẹ tôi lâm bệnh, anh em chúng tôi chạy chữa cho mẹ dưới mọi hình thức: thuốc Tây, thuốc Tàu và ngay cả thuốc Nam cũng dùng vào việc chữa trị, nhưng bệnh không thuyên giảm. Đến một ngày phải đưa mẹ vào bệnh viện chữa trị. Tôi được các anh chị tôi ủy thác thường trực trong bệnh viện săn sóc cho mẹ, sở dĩ tôi được làm nhiệm vụ này vì tôi là kẻ vô gia cư, không một “đồng ten dính túi” trong thời gian  mẹ tôi bệnh. Các anh chị thì có điều kiện hơn phải ở bênh ngoài để kiếm tiền trang trải viện phí. Mỗi ngày y tá đến giường bệnh của mẹ tôi thay những tấm ra trắng nơi chỗ mẹ nằm, và đặt kim chích trên người của mẹ rút ra từng ống nước màu vàng hôi tanh khó ngửi, những ống nước vàng được bọc kín lại sau khi hút xong và để vào một mâm riêng biệt rồi đem đi một nơi vệ sinh kín đáo. Tôi hỏi người y tá về bệnh trạng của mẹ, nhưng người y tá phục vụ không giải đáp rõ ràng, và bảo tôi nên hỏi bác sĩ điều trị. Gặp bác sĩ điều trị mẹ tôi trong một quán nước ngoài khuôn viên bệnh viện. Bác sĩ vẫn không cho tôi tìm hiểu thêm về bệnh trạng của mẹ tôi, người chỉ nói là sẽ cố gắng điều trị cho mẹ, sau khi tôi “dúi” vào tay của ông năm trăm ngàn đồng tiền của chế độ mới. (1)
 Sau lần  gặp bác sĩ điều trị cho mẹ tôi, tình trạng săn sóc trở nên khá hơn, nhưng bệnh của người thì không khá. Cơn bệnh bắt đầu tăng tốc làm đau cả thân thể của người. Mẹ không còn ngủ được , trằn trọc và lăn lộn suốt đêm. Tôi phải đấm bóp cho người để giảm phần nào cơn đau nhức, nhưng cơn đau không chịu  khuất phục dưới đôi tay chưa lần  nào trả hiếu cho   mẹ, nên cơn đau không sợ và vẫn chủ động tấn công người đến rên xiết. 
Một ngày nọ, nhiều đàn chim lạ không biết từ đâu bay về, đậu đầy trên những cây cao su già cỗi còn sót lại sau một đợt triệt hạ gỗ để đun lò của ban giám đốc bệnh viện.  Trong khu cách ly ( khoa truyền nhiễm ) của bệnh viện có những con chim quạ đen, đi đi lại lại trên cành của một cây cao su khô và kêu những tiếng ghê rợn, hòa cùng tiếng kêu hỗn  hợp của nhiều giống chim khác, tạo nên một âm thanh quái đản như tiếng gọi của qủy dọa sa đang từ âm phủ trồi lên dương gian để bắt hồn người trong những phim ma kinh dị.
Mẹ tôi chết sau động tác rút nước trong buồng phổi lần thứ 50 của người y tá, khi chết thân thể của  mẹ tôi trở nên khô đét da xanh như  màu đọt chuối sứ non , khi mẹ còn sống trồng quanh nhà.
Tôi không thể nào hiểu nổi căn bệnh, bác sĩ điều trị thì nói rằng đó là một dạng ung thư  phổi. Chứng bệnh này thuộc vào loại nan y  vì số nước trong buồng phổi tạo ra rất nhanh, trong vòng vài ba tiếng đồng hồ nước vàng có từ những nan phế quản tiết ra đầy lấp cả buồng phổi và tràn sang đè nặng lên tim sẽ làm cho bệnh nhân khó thở  đưa đến  tử vong vì tim ngưng đập. Trái lại khi hút hết nước vàng, hai buồng phổi khô sạch, nhưng lại dính sát vào nhau làm cho người bệnh dễ chết ngộp. 
Đám ma mẹ tôi được tổ chức theo lễ nghi tôn giáo Cao Đài. Theo luật của Đạo, người tín đồ Cao Đài Giáo, nếu khi còn sinh thời ăn chay đủ 10 ngày trong tháng khi qui liễu được thọ truyền bửu pháp, tức là các phép bí tích độ hồn trong cơ tận độ của Chí Tôn, nếu còn ăn chay 6 ngày trong một tháng thì không hưởng được những điều này và tang lễ chỉ làm bặt tiến mà thôi ( Làm bặt tiến là làm lễ dâng lên các đấng Thiêng liêng xin cứu giúp vong hồn cho được siêu thăng) . Mẹ tôi vì không phải là một tín đồ thường, khi còn tại thế người tu tập với  nhiệm vụ như là một chức việc trong Cơ Quan Phước Thiện của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ  nên khi chết được nghi tiết tang lễ vào hàng Nhơn Thần, người được làm các phép bí tích như: phép xác, phép đọan căn, phép độ thăng, được hành lễ tế điện có bài thài, được làm tuần cữu, Tiểu Tường , Đại Tường, được tụng kinh cầu hồn khi hấp hối, kinh khi đã chết rồi, tại Đền Thánh hoặc Thánh Thất được dộng 9 tiếng chuông… Và mọi chi phí chôn cất đều do đồng đạo cùng với Hội Thánh lo liệu, mà tang quyến không phải tốn một khoảng tiền nào.
Tuy đám tang của mẹ tôi đầy đủ những lễ nghi, đầy đủ những đồng đạo, những người đã ít nhiều tu tập cùng mẹ tôi khi người còn lúc sanh tiền. Đối với một đám tang như vậy thật là hiếm có cho một đời người,nhưng đối với tôi luôn cảm thấy thiếu vắng . Sự thiếu vắng phát xuất từ tâm linh của một người con mất mẹ. Từ nay tôi sẽ không còn thấy hình hài mẹ tôi trên cõi trần gian . Tôi không còn thấy người tươi cười mỗi khi thấy tôi từ Sàigòn về thăm trong những ngày xuân, tôi cũng sẽ không còn thấy được hình dáng của người với chiếc áo dài trắng đọc kinh cầu nguyện cho bá tánh và nhân lọai được bình yên, cho chiến tranh Việt Nam sớm chấm dứt, cầu nguyện cho những đứa con đang chiến đấu gìn giữ an ninh và tự do cho đất nước, và tôi cũng không bao giờ còn  thấy hình dáng của người gồng gánh những gánh  thực phẩm lặn lội nhiều ngày đêm đến rừng sâu để thăm tôi trong trại tù cải tạo. Mẹ ơi! Giờ này mẹ ở nơi đâu? Mẹ có biết rằng con thương mẹ lắm không?
Trong nỗi bức xúc mất mác, tôi đã viết nhiều bài thơ để tưởng nhớ  đến người. Trong số bài tôi nhớ man mán như vầy: 

Con cúi xuống  hôn lên lần  cuối
Mảnh hình hài người tạo ra con
Thân buốt lạnh như là băng giá
Mẹ chết rồi, mẹ đã đi xa.

Bổng nước mắt nhòa lên tròng khóe
Rớt dài lên mặt mẹ xanh xao
Chuổi thương đau như gào xé tế bào
Lòng thương mẹï dâng trào vô kể.

Con còn lại tâm hồn hoang phế
Kỷ niệm về năm tháng xa xôi
Nhớ những năm lặn suối trèo đồi
Nuôi con  trẻ ngược xuôi tù tội.

Trước quan tài, con rã rời quì gối
Nhớ mẹ hiền những nỗi  bâng khuâng
Nhiều đêm khuya con đã khóc thầm
Vì thế cuộc nên không gần mẹ.

Con cúi mặt âm thầm lặng lẽ
Đêm tràn về chạnh nhớ niềm riêng
Di ảnh còn đây mà mẹ ly phương
Mang thương nhớ con thường nhắc nhở.

Cúi lạy mẹ, con về, mẹ ở
Nắm đất gầy muôn thuở mẹ nằm 
Với trăng thanh, đồng nội sơn lâm 
Cho hồn mẹ cõi âm thanh thoát.
Suốt nhiều năm tôi thật sự như chiếc bàn không có chân tinh thần ghập ghềnh, chồng chềnh như không định hướng, mỗi khi tôi chợt nghĩ về người. những hình ảnh của người mặc chiếc áo bà ba ngắn trắng tay vào những ngày hè nóng bức, đến trường tiểu học đón tôi sau giờ tan trường, nhớ những lần  người đỡ cho tôi những đường roi từ ba đánh vì tội trốn học, những năm  tôi học thi lấy bằng tốt nghiệp trung học, người lui cui dưới nhà bếp nấu và bưng cho tôi từng tô cháu ăn khuya…
Nói làm sao hết mẹ hiền ơi!
Công đức cù lao lẫn dưỡng nuôi
Chẳng quản thân, ngày đêm lặn lội
Cho đàn con được ấm no thôi

Mẹ đã vì đời vì các con
Tình thương mẹ rưới khắp nước non 
Không phân nghèo khó hay già trẻ
Dù bỏ xác thân tình vẫn còn

Mẹ là Bắc Đẩu giữa trời đêm
Soi sáng nhân gian khắp mọi miền
Vươn gương bác ái lần tay đuốc
Dẫn lối tình thương đến cõi thiên
…………………………………………………………………
Thế rồi thời gian  trôi qua như là một liều thuốc kỳ diệu, dần dần những u buồn, nỗi đau trong tôi đã ngoai nguôi bớt phần nào. Tôi cảm thấy phấn khích trước sự hồi sinh kỳ diệu của thiên nhiên khi xuân đến.
Sau lần giổ và những lần thanh minh tảo mộ, tôi thường đến nghĩa trang thăm mẹ. Tôi chăm sóc trang trí hoa và quét vôi, sơn trên mộ mẹ khiến tôi vơi bớt những kỷ niệm đau buồn. Nhiều năm sau, tôi không còn có dịp thăm mộ mẹ nữa. Tôi bị  chính quyền cộng sản chuyển đi " vùng kinh tế mới" . Các anh chị của tôi cũng  bị chuyển đến những vùng xa xôi khác. Chúng tôi chỉ gặp nhau vào những dịp giổ lễ, đặc biệt là ngày lễ thanh minh tảo mộ trong dịp xuân về. Thời gian trôi đi… anh em chúng chúng tôi sống như đàn gà con mất mẹ. Ba tôi mất khi tôi còn quá nhỏ và người anh cả lúc đó mới chỉ đủ tuổi trưởng thành. Thời gian ba tôi qua đời chúng tôi sống chung trong gia đình với mẹ. Những năm tháng còn lại của mẹ dường như để đền bù nỗi đau mất cha của tôi. Bây giờ đến lượt mẹ tôi nằm xuống yên nghĩ dưới một tấm mộ bia bằng xi măng sơn trắng ghi vài dòng chữ đơn sơ : “ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Phần Mộ Giáo Thiện Hà Thị Ngàn, Sinh Quán Thanh Điền Tây Ninh, Ngày qui vị: 3-9 năm Tân Mùi, Tử Tôn lập mộ” . Sau khi chương trình “ Kinh tế mới” của chính quyền Cộng sản bị thất bại.Người dân bỏ về thành phố sinh sống.Theo phong trào tôi cũng về lại Sàigòn. Tôi lại có dịp đến nghĩa trang thường xuyên hơn. Tôi thường chọn ngày nắng ấm để đến thăm mộ cha mẹ tôi. Những lúc ấy, dường như tôi lại được trở về bên cạnh họ, dù chỉ trong ý nghĩ. Sự yên tĩnh nơi đây khiến lòng tôi bình yên hơn. Tôi thường quan sát những người xung quanh cũng đang bận rộn chăm sóc phần mộ của người thân họ và tự hỏi không biết họ đang thương tiếc cho ai? Tôi không hề quen họ nhưng tôi cảm thấy dường như họ và tôi đều là những người thân của nhau.
Một ngày nọ, tôi để ý đến một nấm mộ nằm ngay sau mộ mẹ tôi. Nó nằm khiêm nhường giữa hàng trăm ngôi mộ bia vững chãi ở xung quanh. Và chính sự đơn sơ của nó đã khiến tôi chú ý. Cỏ và hoa mắc cỡ ( hoa trinh nữ) phủ kín  cả ngôi mộ đến độ nhìn không thể thấy được gì Và vật trang hoàng duy nhất trên mộ là một tấm mộ bia làm bằng gỗ mộc đơn sơ  với những hàng chữ được khắc lọt tõm vào trong thân bản gỗ ghi tên một người phụ nữ đã hưởng dương 22 tuổi. Mỗi lần đi ngang ngôi mộ này, tôi lại mường tượng đến những câu chuyện khác về người phụ nữ mất sớm ấy.
Một lần , tôi thấy một người đàn ông lớn tuổi vừa rời ngôi mộ này. Tôi đoán rằng ông ấy đến thăm mộ vợ mình. Vào ngày lễ tảo mộ trong dịp xuân năm 1994, trong khi lo nhang đèn, bánh mứt cúng phần mộ của ba me ïtôi, tôi bắt gặp người đàn ông ấy đang chăm sóc ngôi mộ, tôi đã bắt chuyện tự nhiên với ông, hỏi ông về lai lịch ngôi mộ. Và đây là câu chuyện của ông: " Đó là ngôi mộ của mẹ tôi bà mất vì viêm phổi vào năm 1912, khi còn rất trẻ. Lúc đó tôi chỉ mới được một tuổi rưỡi. Thật sự tôi không còn nhớ được khuôn mặt của bà . Chính tôi đã làm cho bàtấm bia gỗ và hàng chữ này. Ngoài ra chẳng ai đến thăm ngôi mộ này, bởi tôi là con một. Rồi cha tôi kết hôn một lần nữa. Mẹ kế tôi chỉ chăm lo cho những đứa con ruột của bà. Tôi luôn đến đây thăm mẹ tôi, dù vui hay buồn. Sau đó, cuộc sống đưa tôi phiêu bạt nhiều nơi, nhưng tôi không bao giờ quên ngôi mộ này. Đối với tôi, nó là một mái ấm gia đình, là " căn nhà" nơi tôi trở về sau những chuyến đi xa. 
" Nhiều năm trôi qua, việc thăm viếng hàng ngày trở nên khó khăn đối với tôi. Thế nhưng, chừng nào chân tôi vẫn còn đi được thì mỗi năm tôi vẫn sẽ đến thăm mẹ tôi ít nhất hai lần. Năm nay tôi đã 80 tuổi, không biết tôi sẽ còn tiếp tục điều này thêm bao lâu nữa".
Tôi lặng người ngồi nghe ông kể, hai mắt tôi nhòa lệ khi tôi chợt nhận ra rằng mình chưa bao giờ chứng kiến một tình yêu vô bờ bến đến dường  ấy. Tình cảm của tôi còn nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với ông ấy- bởi vì bất kỳ lúc nào tôi cũng có thể tìm đến được những kỷ niệm xưa của cha mẹ tôi; hay xem lại những tấm hình vui buồn thuở trước- đã từng gắn liền tôi với cha mẹ. Còn người đàn ông chân tình này liệu có được một kỷ niệmnào để ấp ủ? Có chăng chỉ là một tấm hình mờ nhạt của mẹ ông ngày trước. Hẳn có một mối dây liên hệ vô hình nào đó rất mạnh mẽ mới khiến ông lui tới viếng thăm ngôi mộ của người phụ nữ xấu số kia- người đã rời bỏ ông quá sớm đến nỗi ông chưa kịp hưởng được chút tình mẹ thiêng liêng, mà thay vào đó là một cảm giác thiếu vắng vô tận, day dứt mãi khôn nguôi.
Tôi vô cùng xúc động biết rằng mình vừa được ban cho một " món quà tuyệt diệu" . Tôi đã chứng kiến một tấm lòng tận tụy và tình cảm thiêng liêng bền vững, đã gắn bó một người đàn ông bình thường có trái tim cao cả với người mẹ quá cố của ông. Và tôi quyết định sẽ chăm sóc cho cả ngôi mộ ấy những khi đến thăm mộ cha mẹ tôi.
Tôi đã làm việc này suốt khoảng thời gian khi tôi còn ở Việt Nam. Bây giờ , đã hơn 12  năm  sống nơi xứ người xa xôi, tôi đã không còn dịp chăm sóc phần mộ của ba mẹ tôi cũng như của người đàn bà quá cố kia. Đôi lúc, thoáng chợt nhớ từng đám cỏ và hoa mắc cở phủ đầy  trên ngôi mộ người đàn bà nọ và những tấm bia trắng với những dòng chữ ghi lại ngày chết trên hai phần mộ của ba mẹ tôi , tôi cảm thấy xót xa, nhất là mỗi lần khi xuân sắp đến. Tôi  ước mong  có lần nào được trở lại thăm xứ sở trong tự do, để tôi được tự nguyện làm những gì theo ước muốn của mình. Tôi được chăm sóc lại từng những ngôi mộ của người thân ,để bù lại những khoảng thời gian chia xa trống vắng.

HÀ ĐÌNH HUY

Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

GIÀ ĐÂU PHẢI LÀ ĐỒ BỎ!

Danh Hoạ Vũ Hối & ký giả Duy Văn

"Già không phải là một gánh nặng mà là một nguồn lực" 
               ( WHO Tổ chức sức khỏe thế giới )

"Năm nay tôi đã 95 tuổi, nhưng tôi vẫn tự lo được vệ sinh bản thân mình mà không phải nhờ vả đến con cháu. Tôi vẫn còn đọc được sách báo, viết văn, làm thơ…". Đó là lời phát biểu của cụ TQ nhân ngày sinh nhật 95 năm của cụ.
Cùng đi với A người cháu họ của cụ, ký giả Kiến Nâu đến một căn phòng khá tiện nghi trong một khu chung cư dành cho người cao tuổi nằm trên đường King, thuộc thành phố San Jose.
Khi chúng tôi đến nơi, đã có mặt một số người với những quà bánh, tặng vật để tập trung ở một góc phòng. Được giới thiệu Kiến Nâu tôi mới biết là con cháu và bạn bè của cụ TQ. Tôi vừa chào cụ TQ và mọi người xong, thì lễ sinh nhật của cụ cũng được bắt  đầu. Hầu hết người tham dự đều cùng hát bản " Happy Birthday" do cô giáo dạy trẻ Milderd và bà hiêu trưởng Patty Hill của trường mẫu giáo Louisville Kentucky ( Kingdergarden Louisville Kentucky) sáng tác và đã lưu hành cho toàn thế giới. Mọi người đều chúc cụ " sống lâu trăm tuổi". 
                              Theo lời của A, cụ là một trong những người sống lâu nhất trong gia tộc nhà họ T. Những người bà con khác đều không sống thọ như cụ và đã đều đi "gặp tổ tiên " ở lứa tuổi chưa tròn 60. 
Khi qua Mỹ cụ ở lứa tuổi thất thập, nhưng vẫn đến trường lớp học Anh văn và đã tốt nghiệp college khoa học xã hội ( social science).
Năm rồi cụ đã đoạt giải danh dự về cuộc thi viết truyện nói về nước Hoa Kỳ do hệ thống nhật báo Việt báo tổ chức. Cụ là một trong số người lớn tuổi nhất nhận giải này trong hàng chục người tham dự. 
Mới đây, cụ cùng các thức giả đã trích biên soạn và ấn tống tập Bình Ngô Đại Cáo. 
" Bình Ngô Đại Cáo"  là một bản hùng văn do danh nhân Nguyễn Trãi viết dưới Vương Triều Lê Thái Tổ, và được soạn thảo vào năm 1427 để báo cáo cho toàn dân biết quân ta đã toàn thắng đánh đuổi quân nhà Minh chiếm lại bờ cõi quốc gia . Bình Ngô Đại Cáo là một văn bản viết bằng Hán tự, mang ý nghĩa cứu nước thương dân với tinh thần hào hùng, bất khuất tự cường, đoàn kết để bảo vệ đất nước." Hiện nay, bà vẫn sinh hoạt trong Ban Phổ Biến Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam.
    Năm nay, hơn 80 tuổi cụ HTN một Nhà thơ nổi tiếng vùng Bắc Cali, ít khi bỏ sót một cuộc sinh hoạt nào của Cộng đồng. Từ việc ra mắt văn thơ đến các cuộc hội thảo có tính cách chính trị đều có mặt cụ tham gia. Một người là nghĩa tử của cụ cho biết việc tham gia của cụ vào những buổi ra mắt văn thơ sẽ tăng giá trị cho ban tổ chức. 
Theo một số bè bạn hiểu biết về cụ thì cụ là một người có tài làm thơ, cụ có thể làm bất cứ một thể loại nào và làm rất nhanh. 
Trong câu chuyện truyền miệng, cụ đã được Tổng Thống Ngô Đình Diệm triệu về Phủ Đầu Rồng, làm đến Giám Đốc Đài Phát Thanh . Một hôm Tổng Thống đi kinh lý đến một làng có một ngôi miếu cổ. Trước hai bên cửa miếu có những hàng chữ Hán. 
Tổng Thống Diệm bèn quay sang tả, hữu hỏi đoàn tùy tùng xem ai biết những những chữ Hán khắc trên ngôi miếu cổ kia .Thời gian chầm chậm trôi qua, không một Bộ Trưởng Tướng Tá nào đáp ứng yêu cầu của ngài Tổng Thống. Ngài có vẻ khó chịu và bèn quay hỏi mọi người. Khi đó một Đại úy giơ tay lên nói biết những hàng chữ Hán trên.
 Tổng Thống Diệm cho vời viên Đại úy đến gặp ông. Viên Đại úy đã giải thích cặn kẽ ý nghĩa những hàng chữ Hán trên ngôi miếu cổ. Tổng thống gật gù khen ngợi và cho lấy tên tuổi của viên Đại úy đó. Sau chuyến đi kinh lý, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho gọi viên Đại úy vào Dinh Độc Lập trình diện và giao phụ trách Giám Đốc Nha Truyền Thanh Quốc Gia.
Cụ HTN cũng đã nhiều lần được cử đi dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế và đã làm cho Văn Bút Việt Nam ( thời Đệ Nhất Cộng Hòa) có tiếng nói giá trị trên văn đàn thế giới.
Nay cụ vẫn còn khỏe và vẫn mang hoài bão đem văn hóa phục vụ cho dân tộc Việt Nam. Cụ mong muốn truyền đạt những kinh nghiệm hiểu biết về cuộc đời làm văn hóa của mình đến cho thế hệ mai hậu với đôi lời mong mỏi.
" Tuổi người già. Người tóc bạc như  sương,
   Lòng người trẻ. Người luôn luôn tha thiết, 
   Đem truyền bá những điều người hiểu biết,
   Gạn tinh hoa gởi lại lớp người sau."
                                   ( Hà Thượng Nhân)
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, một trong những bác sĩ chuyên gắn bó với sức khỏe của người cao niên, trong một bài viết " Già Là Một Nguồn Lực"  khẳng định: "già là một hiện tượng sinh lý tự nhiên, một giai đoạn phát triển sinh lý của vòng đời, ai có trẻ thì có già. Già không phải là một bệnh, mặc dù già thì hay bệnh, dễ bệnh. Già là điều tất yếu, là chuyện đương nhiên khi người ta tích tuổi, thêm tuổi. Lạ là ai cũng muốn sống lâu mà lại sợ già! 
Sống lâu thì phải già chớ sao! Già cũng là điều phổ quát. Xưa nay Tây ta gì mà chẳng già. Có điều hồi xưa, điều kiện sống khó khăn, y học chưa tiến bộ , con người chết quá sớm thì không kịp thấy già , những vấn đề già không cần đặt ra, như ở Việt Nam trước năm 1945 tuổi thọ chỉ 32, còn nay thì xấp xỉ 70. Như vậy già không riêng ai, không riêng thời nào, không riêng xứ nào. Già cũng là điều không thể đảo ngược được, dù ngày càng có nhiều người lao vào tìm thuốc trường sinh, thậm chí các nhà khoa học tính chuyện can thiệp vào gien để con người cải lão hoàn đồng hoặc sống đến 200 tuổi . Hiện nay người ta đã giúp nữ giới chậm lão hóa bằng cách cung cấp estrogen dán vào người và giúp nam giới thuốc viagra, nhưng thực ra cái gì trái với tự nhiên thì cũng chẳng dễ mang lại những điều tốt!
Già thường đi đôi với bệnh hoạn . Có những thứ bệnh dễ gây tàn phế , làm cho người già sống khổ sở , không hạnh phúc trong những năm tháng còn lại . Nhờ những tiến bộ của y học , người ta hiểu biết tiến trình lão hóa , hiểu biết về bệnh tật của tuổi già và do đó người ta có thể giúp làm giảm thiểu tác hại, phòng tránh được phần lớn các di chứng và như vậy là giúp cho người già sống khỏe mạnh với một cuộc sống có chất lượng hơn xưa.
Thế nhưng, để thực sự sống vui, sống khỏe thì còn phải hiểu những vấn đề thay đổi trong tâm sinh lý ở người già, giải quyết những mối quan hệ của người già với chính bản thân mình, với gia đình, với con cháu, với xã hội, nghĩa là giúp cho người già có khả năng tự điều chỉnh thái độ , hành vi cuộc sống sao cho phù hợp với lứa tuổi, với hoàn cảnh mới và có ý thức dự phòng các nguy cơ bệnh tật .
Không thể, không kể đến yếu tố văn hóa, môi trường xã hội, giáo dục sẽ giúp thế hệ sau biết cách cư xử với thế hệ trước, các hình thức tổ chức xã hội thực hiện thế nào để giúp cho người già sống khỏe, sống vui, có bạn bè, có nơi giải trí, có nơi nương tựa.
Nói chung có ba cách đối phó với … “ bệnh” già . Hoặc từ chối nó, hoặc nhắm mắt đưa chân, may nhờ rủi chịu, hoặc chấp nhận mà chủ động , hiểu nó, rồi " sống chung hòa bình" với nó, sống hạnh phúc với nó. Có lẽ đây là cách tốt nhất giúp người già tự ý thức trách nhiệm , nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một tuổi già tích cực"
Ngoài cái nhìn chuyên môn của bác sĩ Ngọc là, nên sống hòa bình hạnh phúc với người già để tạo cho họ có điều kiện giúp ích cho đời, ký giả Kiến Nâu đã thấy ở người cao niên một nguồn lực dồi dào nữa đó là tấm lòng muốn đem khả năng kinh nghiệm của mình đã dày dạn, từng trải, trao lại cho những thế hệ sau mà Kiến Nâu nghĩ rằng, rất cần thiết cho cho những lớp người trẻ muốn biết những gì ở lớp người đi trước.
Nhà Văn Thanh Thương Hoàng, nguyên là chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả của Việt Nam Cộng Hòa và hiện nay là Chủ nhiệm kiêm Chủ Bút Tuần báo Đời, đã tâm sự với những bạn bè và các cộng sự viên: " Có người bảo tôi tuổi đã cao tội gì mà phải lao thân vào việc báo bổ viết lách làm gì cho cực tấm thân. Nên để thời giờ đi ngao du đây đó cho nhàn hạ cái thân già.” Nhưng ông trả lời: “tôi có một hoài bảo là muốn duy trì và phát huy chữ ngôn ngữ Việt của chúng ta nơi hải ngoại, nên cần phải làm những gì có thể làm được cho các thế hệ mai sau. "
Tâm tư này đã được ông biểu lộ qua lời phát biểu ngày ra mắt Tuyển  Tập Thơ Văn Hoa Vàng: " Phải buồn rầu mà nói rằng, nền văn nghệ hải ngọại của ta hôm nay, đang trong cảnh chợ chiều hiu hắt và rất là buồn thảm . Và với đà xuống dốc này, thì tôi e ngại trong vòng vài mươi năm nữa, sẽ không còn những tập truyện, những tập thơ chữ Việt tức chữ quốc ngữ của chúng ta xuất bản ….Nếu con thuyền văn nghệ Việt Nam ở hải ngoại bị chìm đắm, thì trách nhiệm một phần lớn do người cầm bút hôm nay…" 
Trong một dịp ra mắt sách khác của một thi hữu ở San Jose, Nhà Văn Thanh Thương Hoàng đã kể cho toàn thể tham dự viên nghe một câu chuyện về vấn nạn của thơ văn. Oâng nói rằng: 
" Oâng có một người bạn già làm thơ, thuộc loại lão làng, có một quá trình nửa thế kỷ làm thơ, có gởi cho ông mấy tập thơ nhờ mang đến các tiệm sách gởi bán.
Người chủ tiệm sách thứ nhất, chỉ mới nghe ông nói tới ý định, chưa thèm nhìn tới tập thơ đã xua tay lia lịa và nói cám ơn vì tiếc không còn chổ để bày bán.
Người chủ tiệm sách thứ hai, nhẹ nhàng hơn một chút, nói: Thơ không bán được đâu ông ơi, bày làm chi vô ích.
Người chủ tiệm sách thứ ba, cầm tập thơ ngắm nghía rồi tấm tắc khen bìa sách đẹp, rồi người chủ tiệm khoan thai chậm rãi nói: Mong ông thông cảm, chúng tôi rất tiếc từ chối việc ông gởi bán, thú thật với ông dù có là bậc thi hào như cụ Tản Đà, thì bán thơ chẳng ai mua đâu! Ông nên bắt chước cụ Tản Đà gánh thơ lên bán chợ trời vậy! 
Trong lúc Nhà Văn Thanh Thương Hoàng và người chủ tiệm sách đang nói chuyện, một thanh niên có vẻ là sinh viên đứng gần đó nghe câu chuyện tò mò hỏi Nhà Văn Thanh Thương Hoàng.
-Cụ Tản Đà là ai vậy chú?- Cháu có thấy chợ trời bày bán thi văn bao giờ đâu? Oâng Thanh Thương Hoàng phải dài dòng giải thích cho người bạn trẻ biết: Cụ Tản Đà là ai và "chợ trời" đây là chợ trên trời, chứ không phải chợ trời lớn hay nhỏ ở Mỹ này và vì dưới trần thế này thơ văn ế quá, không ai mua, nên cụ Tản Đà phải gánh thơ lên bán chợ trời vậy.
Qua câu chuyện trên, cho chúng ta thấy chính như anh bạn trẻ sinh viên trên là thành phần trí thức mà cũng còn không biết cụ Tản Đà là ai thì nói chi đến giới lao động khác. Cho nên với tình trạng thờ ơ như vậy, chắc nền thơ văn của chúng ta nơi hải ngoại sẽ còn " hoang vắng" và rồi sẽ lần về với " tiếng thơ là những đường tơ của lòng" chứ không còn tích cực phô diễn, phát huy thêm được nữa.
 Có người còn bảo: với thái độ thờ ơ như thế, thì đa số giới cầm bút nhất là lãnh vực thơ văn sẽ thối chí, bi quan và xếp bút nghiên lại để đi bán hàng chứ không bán sách cho chợ trời nữa! Nhưng riêng tôi thì quan niệm rằng: " Còn sống thì còn làm thơ văn, vì văn thơ là lẽ sống của chúng ta và qua thơ văn chúng ta sẽ có tất cả. Thơ là trường tồn, thơ là vũ trụ" " Đời không có văn thơ, đời không còn ý nghĩa. Người không yêu thơ văn người mất hết mộng mơ " Tất cả không còn gì tồn tại qua thời gian, chỉ còn thơ văn là niềm an ủi lớn lao, một xúc tích sâu đậm của tâm hồn."
Chúng ta đang ở xứ người, tấm thân phiêu bạt chưa biết ngày nào trở lại quê hương, trong khi hoàng hôn phủ đầy và tuổi đời đang rũ xuống, nếu chúng ta không làm văn thơ, không thưởng thức thơ văn, không có những buổi họp mặt văn thơ, thì cuộc sống của chúng ta sẽ buồn chán lắm, đời sẽ là vô vị. 
Và đó cũng là lý cớ tại sao mà Nhà Văn Thanh Thương Hoàng với tuổi đời không còn " đủ trẻ" không chịu hưởng nhàn như các bậc thức giả thời xưa " một mai một cuốc, một cần câu" mà còn phải lăn xả vào trận chiến báo bổ để mong cố giữ gìn và phát huy chữ Việt cho thế hệ mai sau.
Trong diện những vị cao niên không chịu " ngồi yên", ký giả Kiến Nâu còn thấy có nhà khoa học Nguyễn Xuân Vinh, người đã một thời làm rạng danh cho dân Việt trên toàn thế giới, qua công trình kỹ thuật thành công về độ chính xác ráp nối  giữa hai thân " mẹ và con" phi thuyền Appolo 11 của Hoa Kỳ trong thập niên 60. 
Ngoài lãnh vực khoa học, người ta còn biết ôngï Nguyễn Xuân Vinh là một nhà văn, nhà quân sự đã có thời là tư lệnh binh chủng Không Quân của nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. 
Hiện nay với số tuổi ngoài thất tuần, ôngï Nguyễn Xuân Vinh cũng không chịu ngồi yên. Ôngï luôn gắn bó với Cộng Đồng người Việt trong mọi sinh hoạt tranh đấu cho đất nước Việt Nam mai sau có được một nền dân chủ tự do không Cộng sản, cho nền văn hóa dân tộc Việt ở hải ngoại mỗi ngày một phát triển, khỏi rơi vào mai một.
Và với niềm hy vọng sẽ có được một thế hệ trẻ nối gót cha ông, lãnh đạo đất nước đem lại cho dân tộc Việt Nam phú cường ông Nguyễn Xuân Vinh mỗi khi đến sinh hoạt với cộng đồng, thường kêu gọi và nhắn nhủ lớp người trẻ trí thức Việt Nam, hiện đang ngụ trên đất My,õ làm việc trong các công ty, cũng như trong chính quyền Mỹ có ý thức dân tộc và có một tinh thần dấn thân, hy sinh cho dân tộc. Tinh thần của ôngï đã được thể hiện qua một bài phát biểu trong dịp nhóm bạn trẻ, luật sư Trần Thái Văn, Anny Quách và luật sư Nguyễn Quốc Lân đến thành phố San Jose gây quỹ tranh cử vào Hạ Nghị Viện tiểu bang California. " Trong những phương thức tranh đấu cho một đất nước, có được sự tự do dân chủ, như hoàn cảnh nước ta hiện nay, thiết tưởng chúng ta cần phải tranh đấu toàn diện. Giới trẻ Việt Nam sẽ là thành phần trụ cột, năng động trong mọi lãnh vực, sẽ là niềm tin của lớp người đi trước hy vọng có được một đất nước Việt Nam thanh bình trong dân chủ tự do không cộng sản. Giới trẻ Việt nam cần nên tham gia thật nhiều vào chính trường My,õ vì đó là một môi trường để tuổi trẻ Việt Nam học hỏi về tiềm năng cơ cấu quyền lực của một nước mạnh và từ đó nhận thức ra được thế nào là "giải phóng " một dân tộc."
Trong diện giữ gìn và phát huy tiếng Việt nơi hải ngoại, ông thường xuyên có mặt trong các buổi ra mắt thơ, văn đồng thời có những bài nhận định về tác phẩm có giá trị. 
Được biết ngoài tác phẩm nổi tiếng " Đời Phi Công" với bút hiệu Toàn Phong, viết vào thời còn là một phi công trẻ tuổi, hiện nay ông có rất nhiều tác phẩm đang viết vào tuổi thất thập. Khi được ký giả Kiến Nâu hỏi về nhân vật Phượng trong " Đời Phi Công" có phải đây là " người tình trong mộng" nay là phu nhân của ông ï? Ông cười và nói: " nhân vật của nghiệp văn chương đấy mà"
Ôngï thường thăm viếng, khuyến khích các em nhỏ nên học tiếng Việt để hiểu biết thêm về những đặc tính của dân tộc, hiểu mà thương con người và đất nước Việt Nam. 
Qua những cống hiến và những hoài bão dành cho quê hương dân tộc, Kiến Nâu tôi nghĩ lớp trẻ Việt Nam sẽ không phụ lòng ôngï. 
Không ngoài mục đích giúp ích cho đời, cụ bà VTL đã hơn 80 tuổi cũng không ngồi yên nhìn những trẻ con ở làng quê của cụ thất học, ngày ngày phải đi bán vé số hay chăn trâu, bò ngoài đồng. Cụ tình nguyện hiến 300 triệu đồng (Việt Nam) để hổ trợ với đồng bào trong làng xây trường học, mướn giáo viên về dạy cho các em. 
Làng X là một làng hẻo lánh nằm sát biên giới Miên Việt thuộc tỉnh Tây Ninh, có độ khoảng 300 hộ dân, phần lớn sống bằng nghề làm rẫy và buôn bán nông sản.
Năm 1994, chưa có một ngôi trường nào để dạy chữ cho con em trong làng, chỉ có một lớp học duy nhất trong căn nhà của cụ bà VTL do con gái cụ, cô NTV tình nguyện làm giáo viên với khoảng 10 em. 
Cụ bà VTL sinh trong một gia đình nghèo ở làng Hòa Hội, thuộc Tỉnh Tây Ninh, phải đi ở đợ từ năm 10 tuổi và chịu nhiều khổ cực. Đến năm 12 tuổi phải ra chợ bán từng củ mì, củ khoai, rau quả… Ý chí và nổ lực đã đưa cụ trở thành một bà chủ cơ sở của hệ thống nhà máy xây lúa liên xã trong vùng biên giới. Rồi tiếp tục cố gắng học hành để thoát nạn mù chữ mong có một ít căn bản kiến thức học vấn, điều hành công việc gia đình và giúp xã hội. 
Vào những năm chiến tranh, cụ đã có nhiều người con gia nhập Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong số các con của cụ có người đã nắm những chức vụ quan trọng trong bộ máy quân sự tỉnh Tây Ninh. ( trước 75) 
Cụ VTL quyết tâm chống lại sự dốt nát và nghèo đói nên luôn vận động bà con trong làng đưa con em đến trường . Cụ tâm sự : " Dù rằng đất nước không còn chiến tranh, không còn tiếng súng trên quê hương, nhưng giặc đói và dốt vẫn còn đang hoành hành. Người dân các vùng xa xôi đô thị vẫn còn chịu khổ. Các em nhỏ vẫn còn lang thang, mù chữ vì thiếu trường ốc. Trong cuộc đời mình và lớp tuổi cùng lứa của mình đã quá cực khổ nên tôi ï mong muốn thế hệ sau tôi và sau nữa có được một đời sống yên bình có tri thức và tự do."
Nhắc đến các cụ cao niên không chịu "ngồi yên" chúng ta còn có nhiều tấm gương tiêu biểu có cụ đã quá bát tuần nhưng vẫn sinh hoạt văn học  văn hóa mong truyền những kiến thức, kinh nghiệm của mình cho con cháu mai sau, đó là điều trân quí đáng phục. Tuy nhiên trong cụm từ "các cụ cao niên không chịu ngồi yên" ký giả Kiến Nâu còn thấy có sự liên quan đến với các cụ vốn có " tâm hồn trẻ" trong lãnh vực sinh hoạt " trai gái " mà theo một cụ ông sống nhiều năm bằng nghề gác dan trong các nhà massage ở San Francisco gọi là làm nhiệm vụ  "truyền tải chất quí hiếm" cho các vị thần nữ .
Cụ C kể rằng: " Năm nay, tôi 78 tuổi nhưng tôi cảm thấy tôi chưa già. Cái gì mà sợ già! Đừng sợ già, sợ chết. Sinh diệt là chuyện bình thường. Có sinh ra là có chết " Xuân đang tới nghĩa là Xuân đang qua; Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già" ( Xuân Diệu) . Đó là quy luật không ai tránh khỏi, vậy tại sao lại sợ? Có kẻ chỉ vì lo chết, sợ già mà không bệnh cũng sinh ra bệnh; không lo sống mà chỉ lo chết nên đâm ra già mau chết. Vậy cứ tự nhiên mà sống, sống vui, sống khoẻ, cần phải hưởng thụ tất cả những gì trời đất đã cho con người.
 Từ lúc 15 tuổi biết yêu đương đến nay, tôi chẳng từ khước mọi cuộc tình nào. Tôi không thái quá trong tình cảm, tôi luôn trân trọng tình cảm. Tôi đã đến và đến với rất nhiều "đối tượng tình cảm" và tôi cảm thấy sự trẻ trung của tôi đã kéo dài được từ đó . Tôi không thể ngồi yên nhìn tuổi đời đi qua mà không mang chút hương vị hoan lạc nào. Qua phân tích chất lượng hồng huyết cầu và một số khía cạnh khác về y khoa thông qua cơ thể tôi, một bácsĩ nói, " cơ thể tôi có nhiều điều kiện tốt cho sinh hoạt nam nữ đó là yếu tố ưu điểm của tôi".
Hiện tại với số tuổi này, mỗi khi có "chiến tranh" với các "vì sao nữ " tôi vẫn chưa buông vũ khí để trở thành kẻ chiến bại bao giờ, chỉ trừ khi luồng khí lạnh từ Alaska đưa xuống làm tổn hại sức khỏe. 
Có vài lần tôi Nam du ra tới thủ đô "nghìn năm văn vật" định tìm lại những kỷ niệm thuở nào của thời niên thiếu, đang thơ thẩn quanh hồ gươm thì bỗng có một "nàng tiên" dịu dàng bước lại gần, gật đầu chào và lên tiếng : 
-Thưa ông, có phải ông là người phương xa mới đến?
-Vâng, tôi đến từ ….
-Từ Mỹ phải không?
-Sao cô lại biết? Hay nhỉ?
-Đã nói là tiên làm sao mà không biết sinh hoạt của người phàm.
-Cô là người Hà Nội?
-Vâng em là người Hà Nội. Còn ông ?
-Tôi cũng Hà …nhưng  Lội.
-Ông này vui ghê nhỉ ! Thế là người Hà …Lội có muốn " ngỏ hồn qua đêm " không?
-Ngỏ hồn làm gì cho có vẻ phiêu bồng. Hãy cứ ….ngỏ xác đi nhé!
Tôi được đưa đến một khu phố trông là la,ï nằm khuất sau một building cao tầng cạnh hồ gươm. Và với " nàng tiên Thúy Kiều", tôi già nhưng đâu phải là đồ bỏ."

Chị nói mần sao! Đụng tới chị, chị cho lật gọng hả? Đó là câu hỏi gằn của cụ L với N một người đàn bà với ám danh "N danger".
Cụ L đến Mỹ theo diện bảo lãnh của con gái. Con gái cụ là vợ của một thương gia giàu có trong thành phố San Jose. Cô Jane Vu thường đi chùa cúng dường cũng như giúp đỡ các hội đoàn người Việt ở vùng Bắc Cali. Nhìn qua những hành động cô thể hiện đối với xã hội bên ngoài, ai cũng nghĩ rằng cô là một người con có hiếu với cha mẹ. Nhưng thực tế đều ngược lại, cô đối xử rất thậm tệ với cụ L. Nhiều lần cô đuổi cụ L ra khỏi nhà ( không biết lý do gì) và cụ không thể tiếp tục ở nhà của con mình nên phải ra đi.
Cụ  L mướn một căn phòng trên đường Senter tưởng để sống cho qua ngày đoạn tháng với tuổi thất tuần. Nhưng chỉ vỏn vẹn có hai tuần khi mướn nhà xong, và theo lời một láng giềng trong khu vực cụ L ngụ, hàng ngày có nhiều người đàn bà hạng tuổi khác nhau đến căn phòng của cụ. Vì chỗ quen biết với người láng giềng nên ký giả Kiến Nâu mới biết thêm nhiều về cụ L.
Cụ L góa vợ từ Việt Nam lúc cụ ở tuổi lục tuần, cụ không tái giá và ở vậy nuôi hai con là cô Jane với cậu Le Vu. Vìø thời cuộc hai con của cụ đã tìm đường tự do . Cụ sống trong một căn nhà tương đối đầy đủ tiện nghi ở Saigon và với số tiền cung cấp hàng tháng của con cái cụï không phải làm thêm bất cứ một nghề gì để sinh sống. Hàng ngày cụ thường đến những quán cà phê nghe nhạc và đến nhà sách để tìm những sách nói về "thuật phòng the " của các vua chúa thời cổ, cũng như sưu tầm những vị thuốc đông phương trợ giúp cho tuổi già khi " lâm trận" càng dẽo càng dai.
Trong số các bà đến với cụ tại căn phòng trên đường Senter có bà "N danger". Nhìn dáng vóc và diện mạo, chắc không một ai có thể dám nghĩ bà là một người  không có tư cách, vì lúc nào bà cũng vui vẻ lịch thiệp với mọi người, ngay khi những việc gì khẩn cấp cần đến,  ít khi bà từ chối. Để tạo thêm bạn bè và " bè phái" bà thường dùng công thức " quà cáp" biếu xén.
Có lần Martha, anh bạn ký giả Kiến Nâu tiếp xúc với bà qua sự giới thiệu của một người bạn khác và đã kể cho Kiến Nâu nghe. Kiến Nâu tôi không khỏi khen thầm tính "cởi mở lòng" của bà. Có thể nói bà thật khéo và khéo đến mức độ người đàn ông nào cũng phải " mở lòng" để cho bà ngồi vào và đệm đoản nhạc " ta đưa ta về nguyên thủy loài người, mùa yêu thương muốn ngỏ, vụng về ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay" của nhạc sĩ Trúc Phương.
Với cụ L, "N danger " vừa là một người tình vừa là một người bạn. Với tư cách một người tình, "N danger " nhằm giải quyết những cuồng dục của mình vì biết cụ L không phải là một tay vừa trong "nghệ thuật yêu đương" 
Cũng qua lời Martha, gọi là bà cho nó có vẻ trẻ trung tí xíu, chứ thật ra "N danger" đã ở vào tuổi non thất tuần, đúng nhất nên gọi là cụ bà. 
Cụ bà " N danger" đã có một bề dày kinh nghiệm trong lãnh vực " ái ân" nên đã được nhiều cụ ưa thích. Trong câu chuyện đùa vui chỉ có hai người ( Martha và N danger) cụ "N danger" cường giọng : " cái lão L sức mấy mà chịu  nổi tui, tiếng đồn là nhà nghiên cứu  chiến thuật , chiến lược phòng the, phòng kín vậy chứ dàn trận thì xếp giáp chạy dài. Trời! Lão làm tàng với ai chứ với "N danger" này hở, chỉ có "gói xác" đem chôn mà thôi. Một lần nọ, lão nốc vào mấy viên thuốc " cường dương" không biết hiệu gì, nhưng tinh thần có vẻ háo hức hung hăng bọ xít lắm. Lão điện thoại cho tôi phải đến cho lão " dạy việc" ngay. Lão ra giọng chê bai tôi là " cụ" làm gì mà còn " xí quách" để theo nổi cuộc chơi của lão. Nhưng lão đã bị " ói" trước ngưỡng cửa vào " hoàng cung" đành phải tấm tắc khen thầm : " N danger", " cụ N danger" đâu phải là đồ bỏ!
Tình cờ gặp cụ L trong quán cà phê XX, Kiến Nâu không khỏi thất vọng nhìn " tướng tá" của cụ như  "que tăm" nhưng sao lại có tiếng đồn về "vụ ấy" ghê quá nên tò mò đến làm quen . 
-Thưa cụ cháu là Phóng viên Kiến Nâu Tuần Báo Đời xin chào cụ.
-Ừ, chào cháu. Cháu là ký giả hả? 
-Dạ, cháu là ký giả.
-Làm báo có đủ sống không cháu?
-Đắp  đổi qua ngày cụ ơi!
-Ờ, báo chí vùng này nhiều quá, lại nữa sống nhờ vào quảng cáo nên cũng khó phát triển.
-Cụ thường đọc báo không? 
-Ngày nào mà tôi không đọc, sáng sớm bọn chúng tôi dăm ba người già thả bộ ra khu Lion lấy báo đem về nhà rảnh rổi đọc  hết tờ này đến tờ khác. Báo Đời của cháu hay ghê à nghen, nhiều bài vở hay lắm, nhất là các loạt bài phóng sự cũng như những bài viết về chủ đề. Thâm hơn nữa là trang Đời Trắng Đen có những tay Tú Lơ Mông, Tú Lơ Mơ … viết những bài chống cộng có vẻ "cao cấp" đấy. 
-Cháu cám ơn cụ có lời khen. Và tiện Đây cháu xin phép cụ cho cháu phỏng vấn cụ một vài câu về " nghệ thuật ái ân " của tuổi già mà theo như lời đồn đãi cụ là người chuyên nghiên cứu về "thuật phòng the" của các vua chúa thời xưa.
-Được chứ! 
-Thưa cụ, theo lời truyền tụng thì các vua chúa thời xưa mặc dù tuổi đã già nhưng vẫn còn phong độ trong khi ân ái với các cung tần mỹ nữ là nhờ vào " Xuân Dược"  ( có những ông vua có tới hàng ngàn cung phi) .Và nhờ nghiên cứu sách báo tìm tòi  các phương thuốc, đồng thời sử dụng nó, nên mới có tiếng đồn về cụ là " bậc thầy " trong nghệ thuật phòng the?
-Riêng cá nhân tôi có lẽ đúng. Tôi có thể với cháu cái " việc ấy" tôi đỡ lắm ít khi thua trận, ngay khi phải tác chiến trong một môi trường thật là hiểm trở.( lúc long thể bất an)  Trong tình huống nào tôi cũng luôn luôn chủ động và đã không làm cho phái quần hồng thất vọng. Tôi cũng ít khi dùng thuốc trợ lực. Tuy nhiên, nói rằng tôi là "bậc thầy" trong "việc ấy" thì thấy hổ ngươi cho tôi, vì cụ " N danger" đã từng chê tôi "ói" trước cổng " hoàng cung" đấy mà!".
 Về các vua chúa thời xưa với vô số thê thiếp, làm sao mà "làm tròn phận sự?" Dĩ nhiên, vấn đề phòng trung thuật (thuật phòng the) và các loại " xuân dược " ra đời. (1)
Trong " Kim Bình Mai" tác phẩm bậc thầy về tình dục của Trung Quốc, Tây Môn khánh đã chết vì tửu sắc. Nhưng nguyên nhân trực tiếp lại là do việc dùng " xuân dược". Phan Kim Liên đã cho Tây Môn Khánh dùng quá liều khiến ông ta xuất tinh liên tục, rồi xuất huyết, kiệt sức và chết.  Cũng vậy, trong " Yến Phi Ngoại Truyện" vì hoang dâm vô độ, Hán Thành Đế bị chứng hư nhược, phải dùng thuốc trợ lực do ngự y bào chế , có tên " thận tuất cao", được coi là một thứ thần dược hiệu nghiệm vô song. Theo lời căn dặn của ngự y, Hán Thành Đế chỉ được dùng mỗi đêm một viên. Nhưng một lần, Triệu Hợp Đức- em ruột Triệu Phi Yến- vì say rượu, quên lời dặn, cho vua dùng tới 7 viên khiến vua " bạo tử"! Đó là vài trường hợp, của vua chúa Trung Hoa . Còn những vị Vương Đế của Việt nam thì sao? Cũng không thua kém với các vị Đế Vương của Trung Quốc. Trong tương truyền, vua Lê Long Đĩnh rất là khó nhọc lắm mới có thể ngồi được lâu để tham gia việc triều chính cùng các quan văn võ. Oâng thường nằm để dự những buổi thiết triều nên tục gọi là " ngọa triều" . Oâng băng hà hãy còn rất trẻ. Dùng " xuân dược" nhiều nhất và an toàn nhất phải nói đến vua Minh Mạng của nhà Nguyễn. 
              Chắc chắn, xuân dược là một phát minh đặc thù của các "chuyên gia" phòng trung thuật cổ đại mà tài liệu được tìm thấy cách đây 2100 năm. Gần đây giới khảo cổ đã khai quật những ngôi mộ cổ đời Hán ở gò Mã Vương . Những bộ sách y học" Dưỡng sinh phương, " Tạp liệu Phương,… đã được phát hiện. Qua 32 tiêu đề các bộ sách trên đều nhấn mạnh rằng xuân dược có tác dụng trị dương suy, tráng dương bổ thận trị " khuyết tật" của các cơ quan sinh dục, bồi dưỡng cơ thể . Dĩ nhiên, các chất dược này có khả năng kích thích tính dục.
              Trong số các tên thuốc, hơn một nữa chỉ rõ liều lượng, cách dùng, nhưng hiếm khi bàn luận về hiệu quả. Dường như nội dung này được thể hiện trong mỗi tên gọi, chẳng hạn như " Ích cam" có nghĩa là có " Ích trung cam mỹ" (kích thích âm đạo).
Nhiều khi, bệnh chứng trở thành tên gọi của một loại thuốc như " Lão bất khởi" hoặc " Bất khởi". Đến đời nhà Minh, " văn hóa xuân dược" đã được hình thành. Tác phẩm " Nhiếp sinh tổng yếu" thu thập phần lớn các trứ tác" Phòng trung thuật" trước đó để phổ biến. Trong đó hai tác phẩm chủ yếu là " Phòng thuật kỳ thư" và " Phòng thuật huyền cơ toàn yếu", tập trung vào vấn đề xuân dược với những tên gọi ngụ ý thật hấp dẫn. Thái bình công chúa vạn thanh kiều, An lộc sơn triệt dạ tư tình tán, Dương phi dạ dạ kiều, Tùy dương đế hạnh quần nữ biến cung xuân, Nhất độ thập niên tưởng, Nhất độ chung thân tưởng,… 
             Phòng thuật và xuân dược của Trung Quốc đã đặt cơ sở trên thực tế và lý luận của khoa học tính dục cổ đại. Tuy nhiên, sắc thái mê tín của các đạo gia và phương sĩ đời sau đã hạn chế vấn đề . Mặc dù hiện nay,nhiều người lên án hiện tượng phòng thuậtvà xuân dược, nhưng xét tới cùng, đấy là những tư liệu quí về xã hội học. Văn hóa học, sinh lý học, tâm lý tính dục học, y học về tính dục và cả một cơ sở quan niệm tính dục sâu sắc đã thể hiện ở đấy. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận việc tìm kiếm xuân dược cho vua chúa vì nhu cầu hưởng lạc. Đến nỗi hiến " phòng thuật" dâng " xuân phương" để được trọng dụng đã trở thành con đường tiến thân phổ biến trong xã hội. Năm Gia Tĩnh, Đào Trọng Văn nhờ tặng " linh đơn" kích dục mà được vua sũng hạnh, làm quan đến đại phu, được phong tước Bá, giữ chức Thiếu sư quan trọng trong triều. Thậm chí, Thịnh Đoan Minh và Cổ Tư học đời Minh cũng nhờ dâng xuân dược cho vua mà được đỗ tiến sĩ và làm quan to!
              Sự hoang dâm của vua chúa Hậu Hán thật là vô độ. Hán Linh Đế Lưu Hoằng từng xây 10 gian " khỏa du quán" trong vườn Tây uyển của cung đình. Phía trước là những bệ đá rêu xanh,chung quanh là những hồ nước xanh biếc với nhiều chiếc ghe do các cung nữ khỏa thân cầm mái chèo. Hán Linh Đế vui chơi suốt đêm ở đây.
              Thời Nam Bắc Triều, phế đế Lưu Tử Nghiệp là một ông vua dâm dật nổi tiếng. Tùy Dượng Đế Dương Quảng cũng dâm ô không kém, cho thiết kế xe " Ngự đồng nữ xa", bên trong có bộ phận kềm giữ tay chân những thiếu nữ nạn nhân, khiến họ không thể vùng vẫy được. 
              Khi đến lầu Chiêu Minh, Tùy Dượng Đế được nhiều cung nữ nghinh tiếp. Tất cả đều mặc y phục rộng, bằng lụa cực mỏng. Khi gió thổi ,dường như toàn bộ cơ thể lộ liễu để thỏa mãn đôi mắt của vua. Tùy Dượng Đế còn cho thắp hương thơm, khói tỏa ngập tràn, giống như mây bay trong cảnh tiên. Để có thể hưởng lạc mọi lúc, vua cho thiết kế bốn bên lầu với tên gọi khác nhau" Tán xuân sầu", " Túy vong qui", " Dạ cam hương" và " Đình thu nguyệt". Không màng tới việc triều chính, Tùy Dượng Đế tự nhốt mình trong " mê lâu" . Một lần vào, ba tháng chưa thấy vua bước ra.
              Sau khi được Dương Quí Phi, Đường Huyền Tông cũng " Tầm hoan tác lạc" không cần gìn giữ. Mỗi năm, vào tháng 5, vua đều đưa Dương Quí Phi " tránh nắng" ở cung Hưng Khánh. Giữa ban ngày, vua và người đẹp tận hưởng yêu đương trong " Thủy điện" . Để lấy lòng Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn dâng tặng 100 viên " Trợ tình hoa hương" có tính cường dương. Viên thuốc nhỏ như hạt thóc, màu đỏ. Được loại xuân dược này, Huyền Tông nghĩ mình như Hán Thành Đế có " Thận tức cao", giấu trong cung, coi quí hơn cả trân châu.
               Theo" Ma Kha Ba La du ký" hoàng đế cuối cùng của Nam Tống, sau khi thiên đô sang Lâm An, không còn nghĩ tới con đường trở về Trung Nguyên, mà lại càng xa hoa, dâm dật. Ôâng thường xuyên du ngoạn trên chiếc thuyền có cánh buồm bằng the lụa. Mùa hè ông cho một số phi tần đi theo, tổ chức săn bắn. Sau đó họ sẽ khỏa thân bơi lội trong các hồ thiên nhiên để vua thưởng ngoạn.
              Theo " Kim sử" phần " Hậu phi truyện", Kim chúa Hoàng Nhan Lương, khi còn làm Tể tướng, lúc nào cũng để thê thiếp hàng chục người bên cạnh. Sau khi lên ngôi hoàng đế, tính cách tàn bạo cùng phát triển với hành vi hoang dâm. Trong tay ông có 12 vị chức phi, 9 chiêu nghi,3 mỹ nhân, cùng vô số cung nữ. Là một ông vua dâm bôn, nhưng Kim chúa lại cấm cung phi quan hệ với nam giới. Trong cung, nếu vị quan nào dám nhìn phi tần, lập tức sẽ bị hình phạt móc mắt. Vã lại, họ không được một mình ra vào cung, mỗi lần xuất nhập phải có đủ bốn người. Hơn nữa, họ không được đi qua những ngã riêng trong cung, ai vi phạm sẽ bị xử trảm.
              Đến đời Nguyên, Hốt Tất Liệt và những người kế vị đều là tín đồ Mật Giáo, bên cạnh họ đầy những thuật sĩ. Sùng bái sức mạnh tình dục, họ tôn thờ nhiều thần qua hình tượng phối ngẫu hợp hoan. Thuật sĩ  Mật Giáo gọi hình thức tu hành này là " Song tu pháp", xem như một phương thức tu hành cao cấp. Theo một phương pháp nhất định thông qua " Song tu", con người có thể đạt đến tình trạng " Siêu độ". Dưới ảnh hưởng của kiểu lý luận này, vua chúa triều Nguyên  say mê nghiên cứu bí thuật phòng trung Mật Giáo. Theo " Nguyên sử" quyển 25, phần" Hợp Ma Truyện", nhân vật Hợp Ma từng tiến cử cho Nguyên Thuận Đế một tăng nhân Tây Phiên là Già Lân chân, một người tinh tường về phòng trung thuật Mật Tông. Oâng ta nói với Nguyên Thuận Đế:" Bệ hạ tuy là vạn thừa chí tôn, giàu có bốn bể , nhưng còn là phàm nhân, chỉ có thể hưởng thụ đời sống phàm trần. Sinh mệnh của người thì ngắn ngủi, phải tu hành Mật Pháp mới có khả năng siêu độ vạn thế". Do ảnh hưởng của Già Lân Chân, Nguyên Thuận Đế bắt đầu nghiên cứu và luyện tập Song tu pháp. Song tu pháp cũng được gọi là " Diễn điệp nhi" , theo nghjĩa chũ hán là " Đại hỉ lạc" một loại " phòng trung thuật" bí mật. Nguyên Thuận Đế hạ chiếu phong cho Già Lân Chân là Quốc sư Đại Nguyên tôn làm thầy. Ngày ngày tập luyện, vua thu tuyển rộng rãi các cô gái đồng trinh để vui thú. Thậm chí, nam nữ còn khỏa thân vui sống nơi " tu luyện" . Từ đó quần tăng ra vào nội cung tự do, và sự dâm lạc một thời được khoác áo thần bí.
              Hoàng Đế Chính đức đời Minh cũng là một người hiếu sắc. Oâng không ngừng tuyển chọn mỹ nữ  bằng cách cho người thân tín đi tìmtrong dân gian. " Minh Thông giám" còn ghi chép: " Vào năm Chính đức thứ 10, trong những chuyến tuần du, ghé vào nhà dân, bắt phụ nữ tiếp đãi, thấy ai vừa ý ,kéo vào xe gian dâm. Đương thời vua còn cho người lu2ng bắt gái đẹp, chở đầy mấy chục xe lớn. Vì thế nhà giàu thường lo lót tiền bạc, châu báu cho Thị Vệ để tránh tai họa khủng khiếp này…"
              Sau khi vua Minh Vũ Tông lập " Báo phòng", các nịnh thần hiến kế:" Con gái Tây vực còn đẹp và hấp dẫn hơn con gái Trung Nguyên!". Thế là vua hạ lệnh tuyển chọn 12 thiếu nữ dân tộc thiểu số  Tây Vực, cùng vua suốt ngày ca vũ, dâm loạn.
              Đời Thanh, vua Hàm Phong phải nuôi cả một bầy nai để giúp mình duy trì khả năng tính dục. Huyết nai trở thành " ẩm liệu" mỗi ngày của vị hoàng đế thích của lạ này. Năm Hàm Phong thứ 10, liên quân Anh, pháp tấn công Thiên Tân. Khi chuẩn bị đào tẩu, nhà vua còn ra lệnh cho bọn hầu cận: " Mạng sống của ta là lộc huyết, hãy mang đàn nai theo!" 
          (2)    Trở lại những vị hoàng đế của Việt Nam . Sách sử chép rằng, vua Minh Mạng ( 1820 - 1841) là ông vua thông minh, tài trí và nghiêm minh nhất trong các vua nhà Nguyễn . Tương truyền rằng có một cung phi quạt hầu vua ngủ, do quá yêu trộm hôn nhẹ lên trán nhà vua, đã bị khép tội khi quân và bị xử chém. Oâng vua này cũng là ông vua có nhiều cung phi nhất trong các vua Nguyễn. Nhà vua chỉ thọ đến 50 tuổi mà có tới 142 người con, 78 trai, 64 gái. Tương truyền mỗi đêm vua chấm tới 5 bà!. Theo sách " Đời Sống Trong Tử Cấm Thành" trích dẫn bài báo của Chaigneau đăng trong tờ Le Moniteur de La Flotte in năm 1858 kể rằng, trong hoàng cung vua Gia Long người ta đếm được 100 cung phi, còn vua Minh Mạng thì hơn. Hai Vương phi vua sủng ái nhất là bà hiền phi Ngô Thị Chính là con gái của Chưởng cơ Ngô Văn Sở sanh cho vua được 4 hoàng tử và 2 công chúa và bà Lệ Tần Nguyễn Gia Thị  con gái của phó Vệ úy Nguyễn Gia Quý  sanh cho vua được 7 hoàng tử và 3 công chúa. Nhưng hai bà nầy thường xung đột lẫn nhau chắc có lẽ vì giành sự ân ái của nhà vua. Những " xuân dược" hiện nay đã thất truyền rất nhiều. Tuy nhiên vẫn còn một vài bài truyền khẩu qua dân gian như " Hoàn Thiếu Đơn" " Hồ Đào Tửu" " Bồ Chỉ Hoàn" … Riêng bài " Bồ Chỉ Hoàn " nhiều danh nhân đương thời đã làm thơ ca ngợi như sau:
               Tam niên thời tiết hướng hiên ngang
               Nhân tình phương tri dược lực thù
               Đoạt đắc xuân quang lai tại thủ
               Thanh nga hưu tiếu bạch tì tu
               Tạm dịch:
               Ba năm sương tuyết ở Đồng châu
               Phương thuốc thần tiên khá nhiệm mầu
               Bồi bổ tinh thần thêm sức khỏe
               Thanh thao riu ríu khách mày râu.
Hốp một  ngụm cà phê cụ L nói tiếp, cháu biết không cái thời cổ đại mà làm gì có thuốc Tây kích dục như bây giờ . Thuốc kích thích đều chế từ rễ cây và những chất lấy được trong thân thể loài vật. Như trong bài " Hoàn thiếu đơn" ( bài thuốc làm cho người ta trẻ lại) các ngự y của vua Việt Vương dùng những thảo mộc như : Bồ Công Anh còn có tên khác là Cấu Nậu Thảo, giống cỏ này thường hay mọc theo bờ vườn, không cần ai chăm sóc cũng vẫn tốt tươi khoảng tháng ba tháng tư là mùa nó đang thịnh, có trổ bông và đến sang Thu thì già, hoa lá đầy đủ . Bây giờ người ta cắt cả gốc, lá ngọn  lấy toàn thân cây cho được chừng 1 cân mang đi rửa sạch. Sau đó thì đem đi phơi chổ khác cho nó khô. Khi đã khô ( trong vòng 10 ngày là khô được) mang bỏ vào trong thùng hay trong khạp đậy kín lại. 
Bây giờ mới xoay qua dùng Hương Phụ 5 chỉ dùng cùng với muối đen 1 lượng tán ra bột. Bây giờ thì mang Bồ Công Anh mà dầm vào bột này đúng một đêm. Hôm sau mới mang ra chia làm 20 nắm , mỗi nắm dùng giấy dầu ( thứ dày) mà gói lại đến ba bốn lượt thật chặt . Rồi thì bên ngoài dùng cứt trùng hổ nhồi sền sệt  bọc ngoài giấy mang đặt lên than hồng mà sấy cho khô rồi đến cháy thành than ra cả. Bây giờ từ từ lột vất bỏ đất và giấy đi, chỉ lấy Bồ Công Anh bên trong đợi nguội, tán nhỏ ra bột bỏ vào thố. Rồi cứ mỗi sáng, mỗi tối khi chưa súc miệng dùng nó mà sát vào răng để chừng vài chục phút ngậm như vậy cho đến khi nước bột ứ đầy miệng thì nhổ hết, súc miệng. Làm được vậy mỗi tháng 8 lần ắt thấy con người nhẹ nhàng, khỏe khoắn lắm. Nếu lở nuốt nước này cũng không sao.
Cháu thấy đó. Việc bào chế thuốc Bắc thật phức tạp vô cùng, đôi khi pha chế không đúng liều lượng người dùng không có kết quả, nhưng thuốc Bắc có một cái hay là " đầm" từ từ ngấm và có tính bổ sinh. Còn thuốc Tây có tính cách cấp thời , không có tính " bền" . Thí dụ khi uống vào một viên thuốc viagra một tiếng đồng hồ sau có tác dụng ngay, và người uống viên thuốc đó có thể " tác chiến " được liền trong trạng thái hưng phấn, nhưng không có tính bổ sinh nghĩa là cái " hậu " về sau. Đôi khi việc dùng quá nhiều thuốc kích dục Tây Y sẽ đem lại nhiều phản ứng phụ cho người dùng thuốc. 
Tôi có một ông bạn già lúc nào trong bóp cũng có thuốc kích dương và thường khoe nhờ vào thuốc ấy mà được sung mãn trong khi lâm trận, nhưng một hôm ông đến gặp tôi nói: 
"Chết rồi ông L ơi!  Mấy tháng nay tôi thường đau đầu và người của tôi thì nổi lên những mụn nhọt, tôi đến bác sĩ cho biết vì tôi dùng nhiều thuốc kích dương nên đã bị phản ứng và dặn dò đừng nên xài thái quá. Nếu lạm phát quá sẽ đưa đến tử vong. Nhưng không có " thần kích dương" làm sao mà "mần việc" được. Bác sĩ ø cảnh cáo kiểu này thì tôi cũng chịu chết đấy thôi! Nói ra thì mọi người cho rằng mình già mà còn ham muốn, già này thuộc "già quỹ già yêu", chứ  họ không hiểu dùm đến trạng thái sinh lý của một người cao niên giống như  một tử tù cần bửa ăn ngon trước khi hành huyết".
Chào tạm biệt cụ L, ký giả Kiến Nâu đến khu nhà housing dành cho người già trên đường King mục đích tìm cụ D người bạn vong niên với người thầy của Kiến Nâu.
Bảy năm trước cụ D sống ở San Francisco, mở lớp luyện quốc tịch miễn phí cho đồng hương người Việt vùng SF và vùng  lân cận, lớp học đặt ở số X trên đường O'farrel. Trong thời gian cụ D hướng dẫn đồng hương học tập, cụ nhờ Kiến Nâu phụ giúp điền đơn cho các cụ già, nhờ đó Kiến Nâu làm quen rất nhiều cụ nên biết được một số cuộc sống và thời oanh liệt của họ.
Trong thời gian phụ việc cho lớp quốc tịch Kiến Nâu đã làm quen với một cụ tên là Trưởng, nhưng mọi người thường gọi cụ là Truổng. Cụ Truổng có vóc dáng vạm vỡ của một thanh niên làm nghề khuân vác,  đầu cụ luôn hớt cua( đúng tiêu chuẩn 0.3 theo kiểu quân đội) . Cụ ở một mình trong một căn phòng trong khu người cao niên trên đường Bush thành phố SF. Và vì tính tình cởi mở của cụ nên Kiến Nâu thường xuyên đến chơi với cụ, biết cụ trước đây là một sĩ quan cấp tá của quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng sản " hấp" trên 13 năm trong các trại tù từ Bắc chí Nam, cụ qua Mỹ theo diện H.O.
Năm 1999, cụ đã 78 tuổi nhưng vẫn thường xuyên tập thể dục và đánh quần vợt với nhóm người trung niên trong câu lạc bộ thể thao trường trung học  Saint San Francisco.
" Cái ông già này, người đàn bà nào chả thích". Đó là lời nói của bà H với Kiến Nâu trong một buổi học nhẩy đầm ở hội trường của Hội Cao niên vùng Vịnh. 
Bà H là một góa phụ, hiện sống với hai con bàtrong một căn nhà trên Hill Hyde, sau vụ chồng bà chết trong một tai nạn giao thông cách đây hơm 12 năm. Bà đến lớp khiêu vũ học một vài điệu nhẩy chủ yếu để cho cơ thể được vận động sau thời gian dài giam hãm trong một căn nhà đầy tiện nghi, nhưng trống vắng bởi hai con bà phải đi làm việc ít thường gặp nhau.
Kiến Nâu tôi biết bà quen với cụ Truổng nhưng ít khi nghe bà tâm sự về cụ. Nhưng đối với cụ Truổng thì thật thoải mái, cụ rất cởi mở tâm tình, không những cho Kiến Nâu tôi biết về những kỷ niệm yêu đương thời xa xưa của cụ mà còn cho biết thế nào là "thuật yêu đương". Cụ "thành thật khai báo" rằng: hiện nay cụ có quen và chung sống với nhiều người đàn bà và bà H là người tình thứ 4 trong năm 99 của cụ. 
Một lần khá lâu nên không nhớ rõ năm nào, Kiến Nâu đến thăm cụ Truổng tình cờ gặp bà H. 
Bà có vẻ lúng túng khi đối diện với Kiến Nâu, có lẽ vì đây là một cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn của bà, và " lúng túng " vì còn mang một trạng thái khác bởi trên người bà chỉ mặc một chiếc áo lụa mỏng để lộ nguyên hình bức tranh sơn giả có hai quả đồi như vừa bị hít bởi trận cuồng phong.
Cụ Truổng từ trong nhà vệ sinh chào Kiến Nâu và nói một câu như  phàn nàn: 
-Hôm nay có chuyện gì mà đến sớm vậy. Đến sao không hẹn trước? 
-Cụ quên rồi hả, cháu đã điện cho cụ một ngày trước kia mà! 
-Tao có nhớ cái gì đâu. Ờ mà nay đến có việc gì vậy? 
-Chuyện sách ấy…đó mà.
-Thiệt tao quên mất thôi. Nhưng ngày nay tao ….mần sao đi được? 
Bà H nghe đoạn đối thoại giữa cụ Truổng và Kiến Nâu liền lên tiếng:
-Tôi có hẹn ở bệnh viện cần phải đi ngay, hai người có chuyện thì cứ đi. Đoạn lấy chiếc túi xách khoác vào vai và đi ra cửa. Cụ Truổng chưa kịp tiễn bà H đã ra đến tận đường.
Căn phòng chỉ còn hai người, cụ Truổng nói : Tao nể chú mầy lắm nghen , chứ kẻ khác là tao không tiếp chuyện đấy. Thôi hôm nay đến đây chỉ có việc là đến nhà sách tìm cho chú mày loại sách đó …đó hả? Ngoài ra còn việc gì nữa không?
-Thì cụ hứa với cháu mà.
-Tao hứa nhưng mà…tao…
-Cụ nuốt lời hả?
-Lời thì tao không nuốt, nhưng chú mầy thấy đó tao đã "nuốt thịt "nên quên đi. 
-Bây giờ cụ đi được không?
-Không đuợc, chút nữa tao phải gặp tên manager để giải quyết một số vấn đề tiền rác và điện cho căn hộ.
-Thôi , cụ bận việc thì ngày khác đi nhé, nhưng có việc này cháu muốn hỏi cụ. Theo cụ thì tại sao  các ông vua thời phong kiến Tàu cũng như Việt Nam lại có quá nhiều thê thiếp?
-Chú mày hỏi thì tao hiểu đến đâu nói đến đó chứ không chắc là tao đã thông suốt việc thiên hạ sự này. Nhưng tao có đọc qua một quyển sách thấy sự diện dẫn về khía cạnh " đa thê" trong đó tương đối rõ ràng.
" Một người đàn ông nhiều vợ ( chế độ đa thê) là đặc trưng của chế độ hôn nhân phong kiến ở Trung Quốc , tính đặc trưng ấy biểu lộ rõ ràng hơn hết ở các ông vua. Tất cả vợ con thê thiếp của thần dân bình thường được gọi chung là " thê thiếp" . " Thê" (vợ chính) chỉ có một người , nhưng " thiếp" ( vợ lẽ) hoặc " tiểu thiếp" có thể rất đông . Thê thiếp lớn nhỏ của đế vương tất nhiên càng đông hơn và có đẳng cấp được qui định hẳn hoi. Trong các đẳng cấp ấy , danh hiệu cao nhất là " Hậu" ( hoàng hậu) và " Phi". 
Nhân số thê thiếp của đế vương nhiều đến nỗi có thể làm kinh ngạc bất kỳ ai. Tại sao đế vương lại chiếm hữu đến hàng vạn phụ nữ như thế? Có thể có 3 lý do:
Trước tiên, các đế vương phong kiến tự xưng mình là chủ của thiên hạ và là bậc tối cao " con của trời" ( thiên tử) như câu nói: " Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thần" trong Kinh Thi đã viết ( khắp thiên hạ không có đất nào không phải đất nhà vua, người ở trên đất ấy không ai không phải là thần dân của vua) . Đất đai , tài vật , tất cả dân chúng đều là tài sản của nhà vua. Bậc thiên tử không thể bình đẳng với các tôi dân, tất cả mọi hành vi của vua đều phải được tôn kính, đương nhiên bao gồm cả hành vi hôn nhân của vị vua ấy. Việc hôn nhân của thần dân đại khái là do sự đồng ý của hai bên, qua một vài thủ tục là đã có thể làm lễ thành hôn, vả chăng số lượng thê thiếp của thần dân không thể quá nhiều, cùng lắm chỉ trên dưới mươi người, còn bậc đế vương lại khác, có thể lấy bất cứ ai mà mình thích, chẳng cần sự đồng ý hay không của đối tượng . Ngòai việc lấy và tấn phong " hoàng hậu" với nhiều nghi lễ phiền phức ra , đế vương thu nạp các tiểu thê thiếp chẳng cần qua các thủ tục như thần dân .
Tiếp nữa, không cần nói ai cũng hiểu đó là để thỏa mãn sự dâm dục của bậc đế vương . Từ đó sinh ra một sự thật hết sức đơn giản : vua thường chết rất sớm. Trong số hơn 300 vị hoàng đế của Trung Quốc , hơn 60% sống không quá 40 tuổi. Trong 19 hoàng đế  đời Bắc Ngụy , có 10 người chết trước 30 tuổi. Chúng ta không dám nói tất cả các hoàng đế chết sớm đều là vì tham dục hiếu sắc, nhưng đó cũng là nguyên nhân quan trọng.
Thứ ba, các đế vương chiếm đoạt thê thiếp đến thế vì có mục đích quan trọng là thèm muốn có người nối dõi, sinh nhiều con cái ( nhất là con trai) làm cho lực lượng hoàng thất đông mạnh hơn để củng cố thống trị của dòng họ mình. Chẳng hạn Tống Huy Tông Triệu Cát trước khi bị quân Kim bắt làm tù binh đã có 31 con trai và 34 con gái, sau khi bị bắt rồi còn đẻ thêm 6 con trai, 8 con gái nữa, tổng cộng gần 80 người con . Đường Huyền Tông Lý Long Cơ có 60 con, còn vua Khang Hi đời Thanh có 36 con trai, 20 con gái. Cứ thử nghĩ xem với số lượng con cái đông đảo như thế , năm ba người vợ làm sao hoàn thành nhiệm vụ sinh đẻ cho được ? Như vậy, số lượng đông đảo hậu phi, cung nữ do đâu mà có? Có thể tóm gọn một câu : là do quyền lực vô biên của các đế vương." ( các phi tần Trung quốc- Nguyễn Tôn Nhan)
Cụ Truổng đưa cho Kiến Nâu một hình cung phi nằm sõng soài truồng nhộng trên chiếc giường gỗ mun bốn góc chạm rồng. Đầu cung phi vấn một chiếc khăn mỏng như lá cờ của hoàng đế nhà Thanh, và đôi chân có hai chiếc kiền vàng . Cụ nói:
-Chú thấy đó, một cung phi còn trẻ với nhan sắc " nghiêng thành đổ nước " như thế làm sao mà các vua chúa không chết sớm cho được! Đó là cung phi thời xưa, bây giờ các bà " hoàng" thời đại còn hấp dẫn gấp mươi lần. Tiếc … ., tiếc cái gì cụ cũng đã quá trời quá đất rồi. Kiến Nâu cắt lời cụ Truổng.
Cháu thấy cụ vẫn còn phong độ cái gì mà phải nuối tiếc . Bà H tuy không kể cho cháu nghe về cuộc đời của cụ, nhưng người bạn của bà đã nói cháu nghe về quá khứ của cụ hết trơn hết trọi rồi.
Có phải trước khi vào lính cụ là một thanh niên chuyên dắt mối cho các nhà thổ ở Hà Nội. Và cụ đã có một số thê thiếp lên đến hàng chục? 
-Đó là chuyện xa xưa chú ơi! Bây giờ đã khác rồi, tôi tiếc vì không còn là khỏe khoắn nữa chứ có phải tôi tiếc những cái dĩ vãng đâu mà chú …
-Ý là không còn khỏe khoắn mà cụ đã có hơn 4 bà hiện tại . Thật già như cụ phải đâu là đồ bỏ!

Hà Đình Huy
                                                                                    


NGÀY XƯA CUẢ MẸ


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Làm con, ai chẳng nhớ công ơn cha mẹ, nhất là hạng văn
 nhân vốn giàu tình cảm? Vậy mà trong văn học thế giới, những
văn thơ khóc cha mẹ lại rất hiếm, so với văn thơ khóc vợ, khóc
chồng hoặc khóc bạn: trong văn học Pháp, chúng tôi chỉ nhớ ít
hàng “ Ô mon père, ô ma mère” của Pasteur, trong văn 
học Trung Hoa chỉ nhớ bài “ Lũng Cương Thiên Biểu” của Âu 
Dương Tu.  Như vậy là tại sao?  Không phải vì tình riêng mà 
khó bàn, chắc tại vì tình thiêng mà khó giải, như thi sĩ Đông Hồ
đã nói: “ Cứ cầm viết đến thì nước mắt lại giàn giụa, tay run 
cảm xúc mà không viết nên lời.”
Đây là lời sám hối của bạn  Hà Đình Huy đã gợi lên niềm bi 
cảm triền miên day dứt của mình. Một số bài thơ ghi lại 
nỗi đau của người con mất mẹ, văn thể, và lời, đều tuy không một
 chút trau chuốt nhưng tình  xuất phát từ đáy lòng.
Đọc thơ bạn Hà Đình Huy chúng ta  thấy ngay một bà mẹ quê chất 
phác, tâm đạo suốt đời tận tụy vì con và chồng quên cả thân mình.
"Ngày xưa mẹ đã nuôi con
Cái nôi chiếc võng, hãy còn xinh nguyên
Cuộc đời mẹ quá  truân chuyên
Dưỡng nuôi con trẻ nhiều phiền hơn vui
Ngày xưa không lúc nào nguôi
Bôn ba khắp xứ ngược xuôi nuôi chồng
Làm vui truyền thống tổ tông
Sinh ra phận gái, một lòng chồng con..."
Chúng ta đọc thơ của bạn Hà Đình Huy cũng không thể cầm 
được nước mắt, và thấy lời này thật chí lý: “ Một nỗi thương 
tâm  chung cho loài ngư

NHÀ XUẤT BẢN ĐỜI MỚI

ƯỚC MƠ CUẢ MẸ

Ngày xưa mẹ có ước mơ
Cho dân tộc Việt bấy giờ an vui
Hoà bình non nước thắm tươi
Tự do làm lụng người người ấm no
Người dân cả nước chẳng lo
Chiến tranh dai dẳng vằn co niên trường
Bắc Nam chung một quê hương
Non sông nước Việt thân thương hữu tình
Ước mơ cuả mẹ cầu xin
Cho cả gia đình đều được bình an
Con cái, cháu chắt, họ hàng
Từ già đến trẻ vạn đàng phước dư
Gái trai đều đặng bấy chừ
Sang giàu phú quí cũng như Thạch Sùng (1)
Danh phận tài lộc ung dung
Chẳng lo nghèo đói khốn cùng tấm thân
Ước mơ của mẹ chỉ cần
Mong người cùng xóm dần dần thương yêu
Cùng nhau họp mặt sớm chiều
Mỗi khi có việc mọi điều lo chung
Chuyện lớn việc nhỏ tập trung
Giải quyết rốt ráo khoan dung khiêm nhường
Hiểu nhau một lẽ quê hương
Tình thôn lân cũng vẫn thường thân hơn
Ước mơ cuả mẹ keo sơn
Mơ ước của mẹ không sờn tháng năm
Lời ước mẹ rất tình thâm
Mong trên ban xuống phúc âm thật nhiều
Các con của mẹ hưởng đều
Lớn nhỏ đầy đủ vạn điều phước an
Sống đời lắm nỗi gian nan
Mẹ mong con trẻ vững đàng bước đi
Ước mơ cuả mẹ khắc ghi
Tâm tư của mẹ chung qui một điều
Dặn dò cả các con yêu
Ăn ở trăm chiều phải lấy nghĩa nhân
Anh em hoà thuận tình thân
Bà con cô bác ở gần hoặc xa
Nên luyện tập tánh vị tha
Chuyện dù có dữ làm hoà tức khi
Giúp người trong lúc khốn nguy
Cùng đàn trẻ nhỏ cô nhi tật nguyền
Làm thiện lòng chẳng vương phiền
Làm thiện sau hưởng phước duyên của Trời
Ước mơ cuả mẹ thế thôi
Mẹ mong con cháu một đời khắc ghi.


CÔNG ĐỨC CỦA MẸ

Nói làm sao hết mẹ hiền ơi!
Công đức cù lao lẫn dưỡng nuôi
Chẳng quản thân ngày đêm lặn lội
Cho đàn con được ấm no thôi

Mẹ đã vì đời vì các con
Tình thương mẹ rưới khắp nước non
Không phân nghèo khó hay già trẻ
Một kiếp thương sanh mẹ hãy còn

Mẹ là Bắc Đẩu giữa trời đêm
Soi sáng nhân gian khắp mọi miền
Vươn gương bác ái lần tay đuốc
Dẫn lối tình thương đến cõi Thiên

Mẹ đã một đời luyện đạo Tiên
Trường chay khổ hạnh suốt ngày đêm
Mong bồi âm đức cho con cháu
Tất cả bình an đặng phước duyên

NƯƠNG CÕI PHẬT

Mồng ba tháng chín mẹ ra đi
Mẹ đã mang theo được những gì?
Ngoài chiếc áo quan chôn kiếp sống
Cùng gói hành trang trắng xiêm y

Còn gì đâu nữa mẹ hiền ơi!
Vạn tiếng khóc than chuyện đã rồi
Im như giấc ngủ trông như bục
Thương tiếc ngàn năm lệ chẳng vơi

Mẹ đã lià xa bỏ các con
Mặc cho trần thế mất hay còn
Nghìn năm vĩnh viễn nương theo Phật
An ngự toà sen hưởng phúc ân

Kỷ niệm ngày đi, mẹ về trời
Cùng người đồng đạo khắp mọi nơi
Chúng con đồng nhất noi gương mẹ
Dưỡng đức tu tâm quyết chẳng dời


TƯỞNG NHỚ MẸ

Nhớ lại ngày xưa, mẹ với con
Vào chùa nhổ cỏ công quả tròn
Để trên chứng giám cho lời hứa
Đổ đạt thành danh rạng nét son

Con nhớ những năm con học thi
Mẹ thường qùi vái Đấng Từ Bi
Để ơn trên độ cho con được
Gặp vận may danh đổ nhất kỳ

Khuya vắng mẹ thường nấu cháo thêm
Cho con bồi dưỡng lúc học đêm
Tình thương của mẹ vô biên quá
Nhớ đến lòng sao khỏi lụy phiền.


 NGÀY XƯA CỦA MẸ

Ngày xưa mẹ đã nuôi con
Cái nôi, chiếc võng, hãy còn xinh nguyên
Cuộc đời mẹ quá truân chuyên
Dưỡng nuôi con trẻ nhiều phiền hơn vui
Ngày xưa không lúc nào nguôi
Bôn ba khắp xứ ngược xuôi nuôi chồng
Làm vui truyền thống tổ tông
Sinh ra phận gái một lòng chồng con
Nguyện thề cùng với nước non
Nhất tâm nhất dạ vì con với chồng
Ngày xưa thời mẹ long đong
Chưa bao giờ hưởng cuả trong Tông Đường
Suốt đời mẹ chịu thê lương
Dưới ách kềm kẹp của phường ác gian
Nhưng mẹ chẳng dám oán than
Vì là cha ghẻ làm quan bấy giờ (1)
Ngày xưa mẹ đã từng mơ
Đến trường học chữ sau nhờ tấm thân
Mơ nhiều rồi cũng như không
Chẳng được đi học chỉ trông đàn bò
Cùng chăn đàn em gầy o
Bốn, năm, sáu …đứa chăm lo suốt ngày
Học lóm là một dịp may
Làm xong hết việc mới rày bút nghiên
Đêm đêm nằm tựa mái hiên
Ánh trăng chênh chếch nghiêng nghiêng toả vàng
Lần mò mảnh giấy gói nhang
Tay run run viết vài hàng ơ , i
Ngoại kêu vội bỏ tức thì 
Têm trầu, dâng nước li bì suốt đêm
Riêng sầu mẹ khóc triền miên
Sầu riêng, mẹ khổ trăm miền đau thương
Ngày xưa mẹ đã ly hương 
Con đường theo Đạo dặm trường khổ thân ( 2)
Lời nguyện mẹ nhớ vạn lần
Ngày xưa mẹ đã nhập dòng Tiên Nha
Mẹ về Thánh Địa Cao Gia ( 3) 
Một lòng mẹ quyết theo mà Chí Tôn
Nên dù khổ ải chẳng sờn
Ngày xưa mẹ đã định hườn tương lai
Bây giờ cho đến ngày mai
Mẹ không còn khổ nữa hoài mẹ ơi!
Ngày xưa mẹ đã vun bồi
Nên nay mẹ đã an ngôi thiên thần
Chín tầng trời rộng mênh mông
Mẹ vui cảnh hạt non bồng Thánh Tiên
Hết rồi đời mẹ đã yên
Con mượn mảnh giấy, bút nghiên ghi lời
Cái ngày xưa đã qua rồi
Mẹ không lo lắng đứng ngồi nữa đâu
Con ghi lòng vẫn rầu rầu
Lệ tràn khoé mắt đậm mầu kính thương
(1) Cai tổng
(2) Đạo Cao Đài
(3) Vùng thánh địa của đạo Cao Đài


QUÊ MẸ

Dừng bước phiêu lưu trở về quê mẹ
Con đường đất bùn lầy lội trơ vơ
Hàng dừa, hàng cau, khóm trúc ngày xưa
Vẫn còn đó im lìm chờ gió nhẹ 
Ngày trước đây, con bưng trồng với mẹ
Nay kết trái rồi mẹ bỏ đi đâu?
Nước dừa dịu thơm ngon ngọt đậm mầu
Con xin cung kính dâng lên hồn mẹ
Miếng cau khô trong ô trầu còn đó
Đã đổi màu theo sương gió thời gian
Nhớ kỷ niệm xưa quê mẹ xuân sang
Đêm vui Tết cả làng trai gái hội 
Quê mẹ đó đã một thời trôi nổi
Chạy giặc lầm than, nạn đói hoành hành
Mẹ phải chống chèo trước cảnh mong manh
Nuôi con trẻ giựt giành từng sự sống
Xa xưa lắm  vào những năm bão lụt
Nước tràn về chôn ngập trọn nhà ta
Nước chôn vùi bao công khó mẹ cha
Mẹ kiên nhẫn dần dà gom góp lại
Hình ảnh mẹ là chân dung vĩ đại
Cho chúng con vẽ mãi bức tranh ngà 
Hôm nay mẹ đã đi xa
Riêng con ở lại xót xa từng giờ 
Niềm thương luyến tiếc trong thơ
Suốt đời con nguyện phụng thờ mẫu thân

HẾT KIẾP 

Chắc ngày ấy mẹ chọn
Tháng chín ngày mồng ba
Để đi gặp Tiên Gia 
Trên chín từng Bạch Ngọc

Vào ngày ấy con khóc
Mẹ lẳng lặng ung dung
Theo tiếng kinh chung cùng
Trước gia đình buồn tẻ

Thắp nén nhang cho mẹ
Con biết mẹ mất rồi
Ly biệt do số Trời
Con biết sao cãi được

Nhớ hoài thời gian trước
Mẹ tích đức tu  nhân
Nên nay cuối chung thân
Được đông người đưa đón.

LO LẮNG

Hôm nay lòng bỗng bùi ngùi
Nhớ thương con trẻ sụt sùi mẫu nghi
Tuổi già sống cảnh sầu bi
Con thơ mỗi đứa vậy thì mỗi nơi
Tám mươi gần đất xa trời
Lòng già thổn thức bồi hồi từng cơn
Thương con luống những căm hờn
Thù nhà chưa trả nước còn than ôi!
Ra đi góc biển chân đồi
Rừng sâu ngàn dặm một đời hiếu trung
Năm năm biệt xứ nghìn trùng,
Chẳng ông Tô Vũ sánh cùng Chiêu Quân(1)
Trường sơn mõi cánh chim ưng
Biển đông lòng mẹ ngóng chừng xót xa
Ngày con trở lại quê nhà 
Xác thân toàn vẹn gia gia yên lòng
Cố công trả nợ non sông
Trời không nở phụ tấm lòng sắt son
Có câu nước chảy đá mòn
Tu mi con ráng làm tròn chí trai
Nghìn xưa cho đến hôm nay
Nếu ai kiên nhẫn có ngày thành danh
(1) Ông Tô vũ và Chiêu Quân trong truyện Tàu

HƯƠNG QUÊ

Sương chiều buông xuống đồi cao 
Gió đưa mây lẽ đi vào đơn côi
Ở nơi hải đảo xa vời
Nhớ thương quê mẹ bồi hồi lòng thơ
Dõi trông về phía xa mờ
Nghĩa mẹ tình nước thẩn thờ tâm cang
Hương quê còn nặng lòng mang
Con sông vàm cỏ xanh ngàn nước mây
Lăng tăng ngọn sóng vun đầy
Ấp ôm nửa mãnh trăng gầy xinh xinh
Nơi đây ngày trước đăng trình
Bút nghiên vứt bỏ quên mình vì dân
Mẹ già căn dặn ân cần
Bại- thành hai lẽ một lần nghe con
Lệ rơi trên má héo hon
Ngậm ngùi con nguyện sắt son ghi lòng
Ra đi đền đáp non sông
Quyết không hổ thẹn con Rồng cháu Tiên
Lời mẹ khắc cốt ghi nguyền
Dù cho đời có đảo điên thế nào
Đêm nay ngồi dưới trăng sao
Nhìn ra biển cả dạt dào nhớ thương
Quê mẹ những lúc chiều buông
Dáng mẹ gậy trúc vương lòng sầu
Tựa cửa mái tóc bạc mầu
Dõi trông đường vắng dòng châu dầm dề
Con đi ngàn dặm sơn khê
Không biết có được về cùng mẫu thân!
Bây giờ cách biển ngăn sông
Bây giờ chắc mẹ yên dần giấc mơ
Quê mẹ từ trước đến giờ
Con không một chút thờ ơ nhớ về.


     HIỂN LINH 

Mẹ ơi, mẹ đã chết rồi
Chúng con qùy tế lệ rơi dầm dề
Trong áo quan mẹ nhuận phê
Chuyển  luân phúc đức trọn bề chúng con
Cháu, chắt ở thế mẹ còn
Hiển linh phù hộ cho tròn mẹ ơi
Mẹ chết các con đơn côi
Mất mẹ là hết một thời làm Tiên.

         LỜI ƯỚC 

Con mong ngày mẹ đắc Tiên
Mẹ cứu cữu huyền ra khỏi diệt vong
Con mong ngày ấy con mong
Phủ Từ con sẽ xây trong ra ngoài
Con mong lời ước hôm nay
Sẽ là hiện thực những ngày lưu vong
Mẹ hiện ở chốn Thiên Bồng
Con mong hồn mẹ một lòng cùng con.

   CẦU NGUYỆN

Mặc bộ áo tang chúng con qùy
Cúi đầu khấn lại đấng Từ Bi
Cầu cho hồn mẹ mau siêu thoát
Cực lạc đăng Tiên ngộ Diêu Trì


Chúng con cầu đấng CAO ĐÀI
Xin cho mẫu mẹ cả ngày lẫn đêm
Chơn hồn ở chốn non Tiên
Vui cùng Di Lạc trọn nguyền ngôi xưa.

           LẦN CUỐI

Con cúi mặt hôn  người lần cuối
Mảnh hình hài người tạo ra con
Thân buốt lạnh như là băng giá
Mẹ chết rồi, mẹ đã đi xa.

Bổng nước mắt nhòa lên tròng khóe
Rớt dài  lên mặt mẹ xanh xao
Chuổi thương đau gào xé tế bào
Lòng thương mẹï dâng trào vô kể.

Con còn lại tâm hồn hoang phế
Kỷ niệm về năm tháng xa xôi
Nhớ những năm lặn suối trèo đồi
Nuôi con  trẻ ngược xuôi tù tội.

Trước quan tài con đang quì gối
Nhớ mẹ hiền những nỗi bâng khuâng
Nhiều đêm khuya con đã khóc thầm
Vì thế cuộc nên không gần mẹ.

Con cúi mặt âm thầm lặng lẽ
Đêm tràn về chạnh nhớ niềm riêng
Hình ảnh đây mà mẹ ly phương
Mang thương nhớ con thường nhắc nhở.

Cúi  lạy mẹ con về, mẹ ở 
Nắm đất gầy muôn thuở mẹ nằm 
Với trăng thanh, đồng nội sơn lâm
Cho hồn mẹ cõi âm thanh thoát.

CHIẾC ÁO BÀ BA

Chiếc áo bà ba trắng ngắn tay
Mẹ tôi thường mặc vào những ngày
Trưa hè nắng nóng trời oi bức
Hình ảnh ngày nào vẫn chẳng phai.

    XÓT XA

Ai về thăm lại quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ về 
Mẹ ơi ngàn dặm sơn khê
Phố phường rừng núi biển mê sóng ngàn
Con đường vào tận nghĩa trang
Nơi mẹ yên nghỉ bình an muôn đời
Như còn nước mắt con rơi
Như còn để lại một thời hiếu nhi
Non cao biển lớn sánh chi
Mẹ ơi, con phải nói gì nữa đây?
Công đức cuả mẹ dạn dày
Tình thương cuả mẹ ví ngay bằng Trời.
Giờ con biền biệt nơi nơi
Con luôn nhớ mẹ khôn nguôi trong lòng
Nhắn cùng mây trắng trời trong
Nhắn cùng gió núi biển sông gọi cùng
Mẹ ơi, hai tiếng thân chung
Biết ngày nào được tương phùng mẹ ơi!
Aâm dương cách biệt phân rồi
Con thương nhớ mẹ muôn đời con thương.

   THĂM MẸ

Lần trước về thăm mẹ 
Dù mẹ bệnh trên giường
Nhưng lòng con vấn vương
Tâm hồn như mở hội.

Lần này về thăm vội
Bỗng thấy lòng dạt dào
Tâm hồn luôn nao nao
Vì không còn gặp mẹ

Đêm về lòng đau xé 
Tan nát cả con tim
Chạnh tủi nỗi niềm riêng
Người con vừa mất mẹ

Căn nhà lá thấp thé 
Di ảnh mẹ quạnh hiu
Trên bàn thờ cũ kỹ
Như muốn nói đôi điều

Hởi này các con yêu
Có hiếu trung với mẹ 
Nên hoà thuận mọi điều
Là hồn mẹ phiêu diêu

Ngôi vị chốn linh tiêu 
Mẹ ban phước thật nhiều 
Cho cháu con nhà họ
Đời sống, được hoằng diêu

Hôm nay về quê mẹ 
Nước mắt con rơi nhiều
Gà con  đã mất mẹ 
Hết một thời nâng niu.

 NỖI NHỚ

Không bao giờ con quên được mẹ
Trong đời con mỗi lúc chiều về
Khi mặt trời vừa chênh chếch lặn
Nhớ nhà là bóng mẹ hiện lên.
Ngay cả lúc con đang làm việc
Cũng hiện dần bóng mẹ dấu thương
Mẹ dấu yêu ơi!
Một đời người vật lộn phong sương
Nuôi con trẻ trăm đường khổ mẹ
Vết chân mẹ dọc ngang buồn tẻ
Một thân cò gánh nỗi niềm riêng
Thấy con vui mẹ hết ưu phiền
Con khoẻ mẹ yên lòng thoả dạ
Mẹ dấu yêu ơi!
Giờ đây mình con nơi xứ lạ
Nhớ về quê mẹ kỷ niệm xưa
Từng gốc cây, tấc đất không quên
Hình ảnh mẹ dấu yêu muôn thuở
Mẹ hết rồi một đời trăn trở
Mẹ vui cùng gió núi ngàn mây
Con còn đây trăn trở năm dài
Nỗi nhớ mẹ không sao nguôi được.

XUÂN VỀ NHỚ MẸ

Cứ mỗi lần xuân về
Trên khắp cùng đất nước
Là lòng tôi mong được
Một ngày hội sum vầy
Nhưng đối với xuân nầy
Lòng tôi buồn trống trải
Vì đời đã đổi thay
Mẹ tôi không còn nữa
Đã chết mùa Xuân rồi
Nhìn lên di ảnh mẹ
Trải sầu cả hồn tôi
Nhớ những mùa xuân trước 
Mẹ cúng rước ông bà 
Thường cầu nguyện bá gia 
Cho quê nhà mau được 
Hạnh phúc trong hòa bình
Nhưng xuân nay một mình 
Trước bàn thờ con nguyện
Cầu hồn mẹ phiêu linh.
             (Xuân buồn 91)


     VỀ CÕI BỒNG LAI

Mẹ nằm đó im lìm sao không nói
Không dạy con bài học sống làm người
Hay là mẹ đã yên vui
Non Tiên, cảnh Phật quên rồi thế gian.
Con nín lặng nhìn đôi môi mẹ khép
Mắt nhắm nghiền, đầy bí ẩn huyền vi
Cõi bồng lai mẹ hay biết những gì ?
Nơi trần thế các con côi cút.

          ĐIỀM ÁC

Một vì sao rụng trên trời
Là điềm báo hiệu ở nơi dương trần
Có người hồn sắp lià thân
Không biết già trẻ nam nhân, đàn bà.
Chúng con họp lại tính ra
Sao rơi hướng khác hay là hướng ta
Anh Sáu bấm tay tính xa (1)
Sao rơi hướng nhà rồi các em ơi.
Chị Tám không nói một lời (2)
Ngồi im như bục rơi rơi lệ lòng
Chú Út ra vào ngóng trông (3)
Như cũng tan nát cả trong tâm hồn.
Riêng tôi lặng lẽ im hơn (4)
Cương quyết tìm đường đi kiếm thuốc thang
Tôi nói: Mẹ sống trần gian
Còn chút hơi thở cũng toan đến cùng.
Không ai có quyền ung dung
Ngôi sao dù rụng biết chừng nơi xa
Ngày đêm lẫn lộn trôi qua
Mẹ hiền thì thào dò dặn các con.
Ngôi sao đã rụng đâu còn
Trên bầu trời sáng mõi mòn vì sao
Đêm hai tháng chín qua mau
Vì sao đã thật đi vào nhân gian.
Lần nữa mẹ nói rõ ràng
Các con mỗi đứa bình an nhớ ngày
Mồng ba tháng chín năm nay (5)
Mẹ về trở lại ngôi rày vị xưa.
Các con ở lại sớm trưa
Thương yêu hoà thuận thủ thừa mẹ vui
Vì sao đã tắt lịm rồi
Là chơn linh mẹ an ngôi thiên thần.
(1) Anh cả trong gia đình
(2) Chị cả trong gia đình
(3) Em Út trong gia đình   
  (4) Tác giả
(5) (Ngày chết của mẹ HTN 3- 9-91)

    

    CHUYỆN VỀ MẸ

Có chuyện ngày xưa tương truyền rằng:
Vào thời Pháp thuộc cũ xa xăm
Ở miền ven biển Ba Tri nọ
Có cặp ngư dân đã sính cầm.

Trai tài gái sắc se thành duyên
Sóng biển reo vui dưới mạn thuyền
Thủy ngư  như cũng mừng đôi lứa
Hạnh phúc trăm năm kết tóc tiên.

Rồi một thời gian lẳng lặng qua
Ba năm chung sống rất đậm đà
Không hay vô tử lưu nòi giống
Nên phải lià xa bỏ xứ nhà .

Trời đất cũng thương kiếp long đong
Hai thân xa lạc chốn lâm tòng
Tây Ninh vạn dặm tìm sinh kế
Lập nghiệp an cư kiếm tử tông.

Một ngày rằm nọ ở núi xa
Cùng với đồng hương đi lễ Bà(1)
Hai ngư dân nọ đồng kính vái
Cầu được sinh con mới đáo gia.

Vào rừng khai phá lập điền nương
Luyện tập võ công để thủ thường
Phòng quân lâm tặc cùng thú dữ
Cứu tế trừ gian cứ một phương.

Rồi lại ngày qua lại ngày qua
Một chiều thu nọ bỗng tin ra
Lời đồn truyền miệng lan khắp xóm
Cho biết nữ dân thụ phước Bà (2).

Gia đình dân nữ lại bôn chôn
Dựng xây tạo tác tươi đẹp hơn
Lắng lo chăm sóc chờ sinh nở
Thật có căn tu nên phước tồn.

Một hài nhi nữ được sinh ra
Tin tức mang vui đến quê nhà
Ba Tri danh địa miền cố xứ
Lan rộng truyền nhanh tới ông bà.

Thắm thoát thời gian như đã quên
Trẻ thơ lần lượt đã lớn lên
Trong căn chòi nhỏ vùng nương rẫy
Với một tình thương thật ấm êm.

Chỉ một tình thương cuả mẹ thôi
Vì khi ra mắt với Đất Trời
Phụ thân yểu mạng theo mây gió
Thương tiếc cha già giọt lệ rơi.

Lớn dần theo nhịp sống tháng năm
Điệp khúc tình yêu chẳng để tâm
Phận gái quê muà lòng riêng vậy
Thư thả tâm hồn dưới bóng trăng.

Một thời thanh nữ tuổi hồn nhiên
Tạo hoá xui chi nạn lụy phiền
Luân hồi duyên kiếp bày căn bệnh
Nên phải cầu cùng đấng Tối Thiên.

Con sẽ tùng theo Đức Tiên Ông
Cao Đài Đại Đạo thượng linh thông
Giải nàn căn bệnh cho con được
Khi gặp hôn phu sẽ nhập dòng. (3)

Lời nguyền ngày xưa đã tròn xong
Một kiếp muối dưa mẹ trọn lòng
Nương cánh hạt bay về phương ấy
Vui đời hằng sống cõi Trời Đông.
(1) ý nói Bà Đen
(2) ý nói thụ thai
(3) nhập môn vào Đạo Cao Đài

        LỜI MẸ DẠY (*)

Bài hát ngày xưa mẹ ru con
Khi còn trên võng hỏn hòn hon
Câu ca ru ấy như còn vẳng
Từng tiếng ù ơ hãy vẫn còn
Ù ơ …con tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép tôi hoài mang ơn
Cha đi ngàn dặm trường sơn
Mẹ còn ở lại chịu hờn nước non
Dù cho nước chảy đá mòn
Biển kia có cạn hãy còn thương nhau
Núi kia ai đấp nên cao
Sông kia ai múc nên hào hào sâu
Công cha nghĩa mẹ đậm mầu
Như Trời như Biển như bầu thiên thanh
Cổ nhân ngày trước dạy rành
Làm người con hiếu mới thành chí nhân
Sống đời bố đức thi ân
Kiếp sau sung sướng muôn phần vẹn muôn
Sáng ngời như ánh thái dương
Là nền chân lý là phương cứu nàn
Dù đời có lắm gian nan
Bài học lương thiện vững an thực hành
Suy nghĩ cùng cạn lại giành
Anh em hờn giận phải đành chia xa
Hãy nhìn gương đấng Thích Ca
Vàng bạc châu báu vậy mà bỏ đi
Lìa xa cung điện thê nhi
Quyết tâm niệm chữ A Di Phổ Từ
Sá chi phàm xác hoá như
Ham mê vật chất làm hư kiếp người
Ở đời tích phúc an vui
Tích ác gặp phải nạn đeo nguôi sầu
Trước mắt hưởng lợi không lâu
Nạn tai sầu khổ đâu đâu đến hoài
Các con chọn một trong hai
Cái thiện, cái ác chọn rày một phương
Làm lành mà gặp tai ương
Là do duyên trước tiền đường gây ra
Kiếp sinh con cháu vậy mà
Trả nợ tiền kiếp ông bà cho xong
Làm ác trước mắt thành công
Có người giàu có kẻ trong người ngoài
Dưới tay nhiều tớ để sai
Phục vụ xuyên suốt cả ngày lẫn đêm
Trông thì thoạt thấy ấm êm
Nhưng trong lòng lại lênh đênh bến bờ
Có khi nạn đến bất ngờ
Của cải tiêu tán thân giờ mạng vong 
Thế là một kiếp sống xong
Còn linh hồn phải long đong dật dờ
Mẹ dạy các con bằng thơ
Hy vọng từng phút từng giờ nơi con
Nghe nhớ giữ tấm lòng son
Cho dù núi lở sông mòn chẳng phai
Cũng nên nghĩ đến tương lai 
Cho đàn trẻ nhỏ ngày mai đắp bồi
Cháu chắt phải định an ngôi
Bảo tồn nòi giống vậy thời tổ tông
Luân thường chẳng mãi mai rong
Đừng cùng huyết thống một giòng cưới yêu
Để cho Tiền Tổ khổ nhiều
Sau cùng hậu thế nhiều điều thị phi
Làm tròn nhơn nghĩa tâm chi
Dù cho gặp phải những gì cũng qua
Nên năng niệm chữ Di Đà 
Tin tưởng vào Phật thoát mà gian nan
Gặp người hàng xóm lầm than
Tìm cách cứu giải bình an cho người
Ở thế đừng quá vui cười
Mà mắc phải lỗi dễ ngươi với đời
Làm trai đứng giữa Đất Trời
Trung cang nghĩa khí là lời đầu tâm
Phận gái cần phải nhủ thầm
Công,Dung, Ngôn,Hạnh đành rành khắc ghi
Tam Tùng, Tứ Đức, phương chi
Nho Tông đã dạy Đạo thì Thiêng Liêng
Sách xưa các đấng Thánh Hiền
Cố công ghi chép lưu truyền mai sau
Hậu thế ta phải bảo trau
Từng chữ, từng ý làu làu Thiên Thơ
Đại Đạo Tam Giáo bây giờ
Các con nên khá nương nhờ Tiên ông
Mẹ dạy sao hết tấm lòng
Mẹ mong con trẻ tinh thông cạn cùng
Về sau dù có mạng chung
Cao đài lễ giáo Thiên Cung bái tường
Cho hồn khỏi đọa Diêm Vương
Đi lên Cực Lạc an khương Cữu Trùng
Chuyện phước khá dễ ung dung
Nhất tâm một dạ giúp cùng tức khi
Ăn ở khuôn phép vậy thì
Kính trên nhường dưới lễ nghi ông bà
Cùng Đạo là con một cha
Khắc ghi lời dạy của mà mẫu thân
Khá nên làm việc chuyên cần
Siêng năng lam lụ ắc phần trời cho
Sang hèn hẳn có căn do
Hãy nên gầy dựng chăm lo thiện lành
Thu tàn Đông đến mong manh
Mấy câu danh lợi như mành treo chuông
Cái xấu làm khổ tông đường
Tiếng nhơ tiếng nhuốc muôn phường chê bai
Rượu chè trai gái chẳng hay
Các con nên liệu dứt ngay chẳng chờ
Phương chi oan trái mà mơ
Gây thêm quả báo hằng giờ cho thân
Anh em như thể tay chân
Yêu nhau hoà thuận vẹn phần thân thương
Vật chất là chuyện bất thường
Là nguyên nhân chính cuả trường đấu tranh
Ru con lòng mẹ chân thành
Ru con mẹ đã trọn dành tình thâm
Trong võng trên tả con nằm
Mẹ rơi lệ nhỏ đầm đầm ướt mi
Sau này nếu có quên đi
Cũng xin hãy nhớ những gì mẹ khuyên
Sầu riêng một bóng sầu riêng
Mong con hiểu lẽ căn nguyên Đất Trời
Mẹ ru ngần bấy nhiêu thôi
Các con thấu hiểu cuộc đời lập thân.
(*)Ghi theo lời dạy của mẹ

       LỜI KHUYÊN

Em ơi mẹ đã mất rồi
Anh em mình phải mồ côi suốt đời
Em cùng anh chị bỏ thời
Tánh hư tật xấu nhớ lời mẹ khuyên
Cha ngày trước đã về Tiên
Nay mẹ đường đó đăng Thiên gặp cùng
Chúng mình hưởng được phước chung
Giàu sang phú quí tột cùng mẹ ban
Em là con út hưởng an
Trên mọi các thứ của vàng tương lai
Nhưng em phải nhớ lời hay
Khi mẹ còn sống khuyên hoài em xưa
Vợ bé, vợ mọn phải chừa
Phải nên trai giới sớm trưa đủ tròn
Trước mắt nhìn vào đàn con
Năm ba bốn đứa hãy còn ấu thơ
Nhiều đêm sống cảnh bơ vơ
Không cha gần gũi để nhờ tình thương
Ốm đau khuya sớm bất thường
Cha lại không có bên giường thuốc thang
Mẹ thời nhiều việc đa đoan
Làm sao chăm nổi cả đàn suốt canh
Tương lai mỗi đứa sao rành
Nghề nghiệp đâu có mà sanh sống rày
Hồi sống mẹ đã nói ngay
Đôi khi em giận nói hoài mẹ luôn
Làm cho mẹ khổ mẹ buồn
Nhiều lúc mẹ khóc lệ tuôn đầm đìa
Thức khuya mới biết đêm khuya
Rất mong em hiểu nghĩa xưa mẹ hiền
Cho hồn mẹ được ấm êm
Sống hằng Tiên cảnh niên niên trên trời
Hồi sống mẹ nói nhiều rồi
Ít khi em hiểu ý thời bỏ đi
Nay xin nhắc lời mẹ di
Em ơi mẹ đã còn gì nữa đâu.

        THỨC TỈNH

Thoáng có lần ta nghe như ai bảo :
“Anh hãy về lo cho mẹ anh đi”
Người của ta tự bỗng nhiên se lại
Và nước mắt trào dâng ngập bờ mi
Lòng nhã ý cám ơn ai nhắc nhở
Nhưng…lỡ rồi đời trai trẻ ngu si
Có phải hồn ta giờ đang tan vỡ ?
Từng tế bào như muối sát kim châm
Phận làm con sao lại quá vô tâm
Để cha mẹ tháng năm dài mòn mỏi
Tuổi hạt đã cao thân già còm cõi
Sống quạnh hiu thân cô độc một mình
Ta vẫn tưởng sống cuộc đời phiêu bạt 
Là ấm êm là hạnh phúc trọn đời
Nhưng đêm về lòng cảm thấy chơi vơi
Lòng thổn thức bồi hồi thương nhớ mẹ 
Đời lãng tử bồng bềnh như chiếc lá 
Trôi giữa dòng sông về tận miền xa
Có những lúc đêm về nơi miền lạ
Cảm thấy cần hơi ấm của mẹ cha
Tình yêu thân thương duy nhất mặn mà
Làm con hiếu phải cần lưu tâm tới
Một lời nhắc đem niềm vui phơi phới
Người cho  ta một không khí muà xuân
Trở về nguồn ta tìm lại tình thương
Xin từ giả con đường xưa phiêu lãng.


QUI TIÊN

Tám chục tuổi xuân mẹ trở về
Ngôi xưa vị cũ chốn thần khê
Hội cùng Tiên Thánh chầu Ngọc Đế
Kiếp sống nhân sinh đã trọn bề

Mẹ bỏ trần gian bỏ thế đời
Bỏ đi tất cả chuyện đổi dời
Nương theo mây gió về Tiên cảnh
Hồn ngự tòa sen ở cõi Trời.

ĐƯỜNG XA TIN VỘI

Hay tin mẹ sắp lìa trần
Lòng đau, tim thắt tâm thần chẳng an
Đường xa dịu vợi hà phan
Tây Ninh quê mẹ ngút ngàn xa xôi
Nhìn qua góc bể  chân trời
Tưởng chừng mẹ vẫn còn ngồi đợi con
Hơi thở yếu đuối mỏi mòn
Thân gầy khô lạnh hãy còn đợi trông
Đứa con số kiếp long đong
Nhiều năm tù tội chẳng mong ngày về
Nghe tin lòng con ủ ê
Chợt như tiếng mẹ gọi về bên tai
Trại giam nhiều lớp kẽm gai
Giữa khuya chốt gác bên ngoài ngủ êm
Con dò dẫm suốt trong đêm
Xuyên qua cái lỗ dưới thềm đường mương
Nhè nhẹ động tác bò, trườn
Thoát ra khỏi trại tìm đường về quê
Ngụy trang thành kẻ làm thuê
Qua mặt bọn lính kiểm kê xét người
Nút chặn đồn A  hai mươi
Nơi đây lính gác nói cười lả lơi
Chọc ghẹo gái đi xe lôi (1)
Xe hơi chở đất qua đồi thong dong
Lính canh hờ hững chẳng trông 
Nằm dưới lớp đất phập phòng lo âu
Cầu nguyện Phật Tổ nhiệm mầu
Cho con thoát nạn được mau đến nhà 
Để con gặp lại mẹ già
Hơi tàn sức kiệt chờ mà mình con
Nhưng khi về mẹ chẳng còn
Đã trút hơi thở mỏi mòn gọi tên
Nhìn quan tài gỗ trong đêm
Đèn dầu leo lét dưới thềm nhà tranh
Nỗi đau thấu tận trời xanh
Về chậm đôi phút mà đành chia xa
Thành tâm nguyện đấng Cao Gia (2)
Cho hồn mẹ được sen tòa ngự ngôi
Từ nay con phải mồ côi
Khoảng đời còn lại vắng rồi mẹ sanh
Thăm mẹ mắt vẫn phải canh
Trông chừng du kích với ngành công an
Sợ luôn ngay cả dân làng
Biết được trốn trại báo quan coi tù
Bắt đưa trở lại biệt khu
Nhốt trong nhà đá thiên thu tối òm
Thân thể bị trói đánh đòn
Có xác chết bắn không hòm không rương 
Bó trong tấm chiếu rách bương
Đêm khuya vắng vẻ đầu đường đem chôn
Tù chết chẳng biết phách hồn
Đi lên tiên cảnh hay vồn diêm cung
Lang thang trong  cõi vô cùng
Oan hồn uổng tử não nùng trong sương
Bởi không kinh kệ độ dương
Vì sư sãi cũng khám đường giam thân
Mục sư, Linh mục thiện chân
Cùng chung số phận dần dần chết oan
Thưa mẹ con phải lên đàng
Không thể ở lại đưa quan mẹ hiền
Đời con từ nay truân chuyên
Chắc phải bỏ xứ về miền xa xôi
Khăn tang con đã chít rồi
Xin mang ảnh mẹ vào đời tha hương.
(1) xe lôi : loại xe kéo có hai bánh thường
 thấy ở miền Đông và miền Tây Nam Việt Nam.
(2) Cao Gia : ý nói Đạo Cao Đài


TIẾNG MẸ THIÊNG LIÊNG

Tôi không còn được gọi
Tiếng mẹ đã lâu rồi
Từ ngày tàn cuộc chiến
Việt Nam đất nước tôi

Giặc tràn qua khu phố
Đại bác với súng trường
Thi nhau cùng nhả đạn
Vào trường học nhà thương

Mẹ tôi nằm chết gọn
Bên cạnh một vách tường 
 Có in nhiều vết đạn
Trong bệnh viện Trưng Vương (1)

Một màu tang ly biệt 
Nhuộm trắng cả giáo đường
Những mái đầu nhỏ  dại 
Sớm mất tình yêu thương
(1) Bệnh viện Trưng Vương  Tây Ninh



VU LAN QUÊ MẸ

Nhớ những mùa Vu lan
Nơi quê nhà năm ấy
Các con xúm nhau lại 
Giựt đồ cúng cô hồn
Trong chiếc mâm cỏn con 
Trước hàng ba mẹ để
Gạo bánh với giấy tiền
Văng tung tóe ngoài hiên
Lòng già thêm vui nhộn
Cô bé nhà hàng xóm
Lượm năm cắc ba cô (1)
Vội chạy vào khoe mẹ
Cháu được tiền cô hồn.

(1) 5 cắc hình ba cô:Bắc, Trung và Nam
thời Đệ Nhất Cộng Hòa

THU VỀ LÀNG MẸ

Những chiếc lá tung bay trong không gian
Theo cơn gió bạt  dặm ngàn sơn khê
Có chiếc rơi tận nẻo quê
Chơi vơi lạc lõng tìm về cội xưa
Thu về làng mẹ vẫn ưa
Trai thanh gái lịch trèo dừa, vót chông
Đánh giặc Pháp bằng tầm vông
Giữa ban ngày lập chiến công hàng đầu
Thu về làng mẹ dân rầu 
Ngoài đồng sương phủ trắng mầu đường đi
Con chim sâu nhỏ sầu bi
Núp trong vòm lá chờ khi sương tàn
Đường quê đèo giốc gian nan
Vài cô thiếu nữ về làng từ kinh
Qua cây cầu ván gập ghình
Bỏ quên cái dáng nữ sinh ngoài thành
Soi hình dưới nước trong xanh 
Hiện thân cô gái cắt tranh của làng ( 1) 
      Mái tranh khói tỏa ngút ngàn
      Cơm  chiều mẹ thổi nuôi đàn con thơ
      Thu về làng mẹ xác xơ
      Đứa con lạc bước bơ vơ tìm về.
     (1) Tranh: Loại cỏ cao lối 1m, lá dài hẹp, có lông nhám, phát hoa có nhiều lông trắng, nhuyễn hơn bông gòn,hoa cả hai tiểu nhị, rễ là vị Mao căn của Đông y có chất làm lợi tiểu tiện, thanh huyết, thối nhiệt và dã rượu, lá dùng để lợp nhà.

TÌNH MẸ MUÔN THUỞ

Ai về thăm lại quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ về
Mẹ ơi, ngàn dặm sơn khê
Phố phường rừng núi biển mê sóng ngàn
Con đường vào tận nghĩa trang
Nơi mẹ yên nghỉ bình an muôn đời
Như còn nước mắt con rơi
Như còn để lại một thời hiếu nhi
Tình mẹ muôn thuở con ghi
Ơn sâu nghĩa nặng chứng tri cao đầy
Công đức của mẹ dạn dày
Tình thương của mẹ ví ngay với trời
Giờ con biền biệt nơi nơi
Giờ con nhớ mẹ khôn nguôi trong lòng
Nhắn cùng mây trắng trời trong
Gởi cùng gió núi biển sông gọi cùng
Mẹ ơi hai tiếng thân chung
Biết ngày nào được tương phùng mẹ ơi!
Aâm dương cách biệt phân rồi
Con thương nhớ mẹ lệ rơi trong lòng.


QUÊ HƯƠNG - QUÊ MẸ


Dòng nước sông Vàm đấp phù sa (1)
Quê Hương, Quê Mẹ một tình nhà
Tây Ninh núi Điện danh muôn thuở (2)
Anh dũng kiên cường một cõi xa

Nhớ những năm xưa thời chiến tranh
Giặc về quê Mẹ phá tan tành
Nhà Thờ, Thánh Thất, cùng thôn ấp
Gây cảnh điêu linh cho dân lành

Mẹ già trốn giặc dưới hầm sâu
Miệng niệm "nam mô" lòng nguyện cầu
Cho quê hương sớm tan chinh chiến
Dân Việt Bắc - Nam hết thảm sầu

Rồi một ngày kia như phép mầu
Quê Hương, Quê Mẹ lại cùng nhau
Núi sông một dải liền Nam- Bắc
Trận chiến tương tàn bỏ lại sau

Nhưng từ ngày đó nhiều nỗi đau!
Đến với quê hương với đồng bào
Tây Ninh quê Mẹ dân ly tán
Cảnh biệt ly nhau lệ tuôn trào

Mẹ già nuốt lệ tiễn đưa con
Vào chốn tù lao thân xác mòn
Rừng sâu núi thẳm chôn đời trẻ
Khép kín đời trai với nước non
(1) Sông Vàm Cỏ Đông
(2) Núi Bà Đen

MƠ XUÂN THANH BÌNH

Mùa Xuân sắp đến nơi rồi
Lòng con sao thấy bồi hồi Mẹ ơi!
Ở nơi  đất lạ xa vời
Nhớ thương từ mẫu một đời truân chuyên 
Tuổi già sống cảnh cô miên
Nhớ thương con trẻ ở miền xa xôi
Giờ con góc biển chân trời 
Giờ mẹ đang sống một đời điêu linh 
Ngày mai đất nước quang vinh 
Tự do dân chủ hữu tình yêu thương
Con về thăm lại cố hương
Gia đình xum họp vấn vương thâm tình
Dang tay đón lấy bình minh
Xua đi bóng tối cực hình gian lao
Nụ cười câu chúc gọi chào
Xuân thanh bình đến dạt dào tình quê


PHẦN PHỤ BẢN 
VỚI MỘT SỐ BÀI THƠ VỀ: 
TÌNH YÊU, THÂN PHẬN VÀ CUỘC ĐỜI…



CÕI RIÊNG TA

Ngày nay dù tóc phai màu
Nhưng xuân xanh vẫn quyện vào hồn thơ
Thời gian bất tận vô bờ
Tình thôi đã lỡ trông chờ thêm chi!
Đưa tay kéo tuổi xuân thì
Năm mươi năm lẽ đã đi vào đời
Ta còn ngụp lặn chơi vơi!
Giờ em “ Hoàng hậu” tuyệt vời của thơ
Em đưa ta khỏi ngu ngơ
Em cho ta những vần thơ  tuyệt vời
Thời gian dừng lại một nơi
Nhường cho thơ của em tôi tung trời.

                 San Jose, đông 2002
                          
CÒN GÌ CHO NHAU

Còn gì cho nhau ngày qua vội quá! 
Em đô thành anh băng giá rừng sâu
Gởi cho nhau dòng thư nhỏ thương đau
Gạt nước mắt, để tiễn chào quá khứ!
Anh ra đi rồi mùa mưa còn chứ ?
Thân lữ hành chân ướt đất bùn xa
Xin giã từ vùng ánh sáng xa hoa
Đêm lạnh buốt xa nhà mang nỗi nhớ
Tuổi bốn mươi lăm, vẫn bàn tay trắng
Không công danh, không sự nghiệp-lập thân
Nơi phương xa, miền đất nước đang cần
Đời phiêu bạt làm tha nhân xứ lạ
Kiên giang đó, bầu trời không nắng hạ
Có nghĩ gì về núi Điện yêu thương?
Anh đi rồi lòng em có vấn vương?
Chiều Tây Ninh hạt sương rơi trong nắng
Thôi xin giã từ bao điều cay đắng
Những chuyện tình yêu hờn giận trăm năm
Anh thu hình vào bóng tối ăn năn
Cho lương tâm đó, nhập nhằng thổn thức
Sống thành đô, em có buồn ray rức?
Mỗi khi chiều lên, lòng thấy cô đơn
Còn gì cho nhau, biết nói gì hơn
Xin chia sẽ nỗi buồn cách biệt.

MƠ DÁNG EM

An Thới chiều hôm mây trắng trôi
Thương người tri kỷ chốn xa xôi
Sai gon thơ quá em yêu nhỉ ?
Lòng nghĩ về em dạ bồi hồi!

Anh ở nơi đây rõ kiếp tù 
Sương mù vây khắp chốn hoang vu
Biển xanh gió núi mưa ngàn thẳm
Bão biển quanh năm thổi vụt vù

Em giữa Sai gon có biết không?
Anh đang khoắc khoải nỗi chờ mong
Suốt đêm thao thức cùng thương nhớ
Vằng vặc con tim nát cả lòng

Mơ mãi Sai gon, mơ dáng em
Mưa giăng gió lạnh thổi qua rèm
Đơn côi thân lẽ trên hè phố
Nhung nhớ ai mà lệ cứ hoen

Mây trắng trôi rồi em thơ ơi!
Hồn anh chết lặng giữa chơi vơi
Bàng hoàng chợt tỉnh trong đơn lẽ
Mới biết mình xa từ lâu rồi.

                        ( Những ngày tháng trong trại tù Phú Quốc)


DỰ TƯỞNG

Thứ hai này, tới lượt ta vào ca mổ
Tập thể người "đao phủ" đứng vây quanh
Cậu mang kéo, cô mang dao ra áng (1)
Ta giật mình, người rợn mất cơn đau
Rồi lịm ngất vì thuốc mê cường bạo
Chích vào gân, trời đất biết ra sao!
Dẫu có khỏe thần kinh nào dám nổi
Nằm ngủ rồi, mặc kệ lũ trăng sao.

(1) cái bàn người bệnh nằm để mổ
(Ca mổ Ngực ở Bệnh viện Trưng Vương 86)

HẠT MƯA

Em là những hạt mưa nhỏ li ti
không thắm đất
Im lìm trong chùm lá của đời anh
Anh đứng giữa buổi trưa hè nắng lửa
Trong tay anh một chiếc lá chết khô
Anh cần em cho cơn khát cả mùa
Cho một ngọn nguồn nguyên sơ 
dòng sữa mẹ
Em là giọt sương nhẹ rơi trên tóc
Là những vành đai vây kín đời anh
Anh lọc từng chút thương trong hạt nhỏ
Rồi giăng giăng cho nỗi nhớ quanh mình
Cho cơn mưa đổ xuống từ bờ mi
trên môi mắt
Còn mãi trong anh sự lạ bất ngờ
Một hạt nước còn xót lại bơ vơ
Để sau đó lòng bâng quơ tự hỏi
Mưa từ đâu có phải từ trăm cõi
Cõi nguyên sinh và một cõi đi về.


BÀI XƯỚNG: TIẾC

Tiếc một trời xanh thuở đậm đà,
Tiếc đời ta chẳng được là ta.
Tiếc sông mây trắng con in bóng,
Tiếc núi chim ngàn bặt tiếng ca.
Tiếc kẻ mãi vui ngoài dặm khách,
Tiếc người con khốn giữa quê cha.
Tiếc thương đọng lại ngàn thương tiếc,
Tiếc cõi đời hư tiếc mộng xa.
                  
                      ĐẶNG THIÊN (Saigon)


BÀI HỌA: TIẾC

Tiếc một thời trai thưở đậm đà,
Tiếc người yêu nhỏ vội quên ta.
Tiếc bao hạnh phúc ngày xưa cũ,
Tiếc cảnh êm đềm vụt thoáng qua.
Tiếc tuổi già chôn sâu đất khách,
Tiếc không còn trẻ giúp quê cha.
Tiếc cho sự học giờ như khói,
Tiếc những ngày qua tủi phận ta.

      HOA MẬN VƯỜN 

Mận ơi có tự thuở nào ?
Mà hoa đươm trắng lối vào vườn em
Cánh còn vươn ít sương đêm
Ngập ngừng tia nắng vẽ lên chút hồng
Chắt chiu từ lớp đất nồng
Nên màu trắng ấy tự lòng thơm …xa
Mùi hương rợp dấu chân ta
Trốn tìm nhau dưới mùi hoa mận vườn
Tinh khôi màu nắng, màu sương
Soi vào ánh mắt vui, buồn, khát khao
Mận ơi có tự thuở nào?


HƯƠNG NGÀY CŨ

Giờ bỗng chiều nay vắng em rồi
Một mình một bóng chợt đơn côi
Nhớ nhung ngày cũ xa vời quá
Một mảnh tình riêng một mẫu đời

Em có bao giờ nghĩ đến tôi
Có nghe lòng xúc động bồi hồi
Để hồn vương vấn theo tôi mãi
Hay chỉ thoáng qua một lát thôi

Nhưng chuyện ngày xưa đã chết rồi
Thuyền tình em ghé bến xa xôi
Mộng vàng ngày đó tôi quên hết
Đành cất bước đi trong mỗi người

                                       
KHÔNG NGỜ

Không ngờ em đã đến
Anh không còn lẽ loi
Nhủ lòng đừng mừng vội
Vì mai em đi rồi

Sợi tơ tình đã mở
Chỉ có một lần thôi
Nửa đời người đã lỡ
Buồn sao hởi người ơi!

Tâm hồn như hoang đảo
Trống vắng và cô đơn
Cho em những ngày hờn 
Trải dài trên cát mỏng

Không ngờ đời vẫn sống
Êm ả theo thời gian
Chỉ có ta vội vàng
Buông xuôi vùng trần tục

LẮNG ĐỌNG


Thôi em nhé duyên mình không trọn vẹn
Thì anh đành ước hẹn kiếp lai sinh
Giờ lang thang ôm mãi mối hận tình
Anh gục mặt cho niềm đau lắng đọng
Bao mộng mơ xưa nay đành tuyệt vọng
Bao hẹn hò đã theo gió mây bay
Cuộc tình mình sao lại lắm đắng cay!
Nhiều buồn thương khổ đau và nước mắt
Giờ xa nhau anh gục đầu cúi mặt 
Liệm linh hồn bằng chiếc áo quan đen
Tiễn đưa em không trống, không kèn
Chỉ lá đổ và mưa thu giăng lối
Em nằm im dưới huyệt mờ u tối
Bước vô tình anh dẫm nát tim ai ?
Trên nấm mồ ngọn cỏ thiếu màu xanh
Vẫn khô héo như  tim anh - người đã chết

MIỀN ĐẤT LƯU ĐÀY

Một sáng mùa Xuân
Tôi đi qua rừng
Một cánh hoa khô rơi bên ven đường
Mùa Xuân đã qua! Mùa Xuân đã qua!
Tôi còn ở lại,
Với tháng ngày buồn, với ngàn nhớ thương.
Một sáng mùa Xuân
Em không đến hẹn
Đường nắng tôi đi, da bỏng lửa trời.
Người yêu hởi em! Người yêu hởi em!
Tôi còn ở lại,
Với lũ man di, mang hình ác quỷ.
Mùa Xuân nhiệt đới
Miền đất lưu đày, 
Em đến thoáng giây rồi xa tay với,
Anh vào bóng tối nhớ mãi dư hương.
Một sáng mùa Xuân
Tôi đi qua rừng
Đường nắng khô khan cô đơn mấy tầng
Mùa Xuân đã qua! Mùa Xuân đã qua!
Tôi còn ở lại
Với tháng ngày buồn!
 (Mùa Xuân trong trại tù)

MIỀN ĐẤT TÔI YÊU

Lâu quá rồi chưa dịp về thăm lại
Tây Ninh ơi, miền đất thuở tuổi thơ
Con suối năm xưa mẹ dẫn qua bờ
Đàn cá nhỏ nhởn nhơ theo dòng nước
Cũng nơi đây hơn ba mươi năm  trước 
Giặc cộng tràn về suối chứa thây người (1)
Xác chết phần nhiều dưới tuổi đôi mươi
Họ đã chết khi tay còn bị trói
Sau chiến tranh người dân đều trôi nổi
Người thì vượt biên, kẻ lại vào tù
Khổ vô cùng là các bậc chân tu
Bị hành hạ còn  phao vu phản động
Núi Bà Đen đã  một thời vang bóng
Cảnh đẹp nên thơ, sự tích nàng Hương (2)
Có trong sử của văn chương cận đại
Sông Vàm Cỏ Đông lững lờ trôi chảy
Góp phù sa đem lại sự phồn vinh
Vùng Long Hoa đất Thánh hữu sinh
Tòa Thánh đó "Bạch Ngọc Kinh" tại thế
Đạo Cao Đài của Ngọc Hoàng Thượng Đế
Mở tại Việt Nam Phổ Độ Kỳ Ba
Tam Giáo Qui Nguyên Hiệp nhứt một nhà
Toàn thế giới có một Cha kính trọng.
Hiếu Thiện, Phú Khương, Trảng Bàng, Khiệm Hạnh
Những địa danh lừng lẫy chiến công xưa
Miền đất tôi yêu giáp dọc Thủ Thừa 
Qua Bến Kéo gà trưa xao xác gáy
Quê hương tôi đo,ù một thời từng trải
Giặc đến nhà đàn bà phải ra quân 
Tết Mậu Thân Việt Cộng chết đầy rừng
Dưới họng súng Địa Phương Quân,Dân Vệ
Người dân quê tôi oai hùng lắm thế!

 (1) Vườn Điều tên con suối,thuộc xã Ninh Thạnh
Quận Phú Khương ,Tây Ninh.
(2) Bà Đen tên thật là Lý Thị Thiên Hương,quê ở 
Trảng Bàng , Tây Ninh.

MƠ VỀ QUÊ HƯƠNG

Qua đi ngày tháng muộn phiền
Để cho giấc ngủ triền miên nghìn đời
Qua đi nắng vội mưa rơi
Để cho chỗ đứng em tôi trong lòng
Đưa tay xua đuổi mênh mông
Đêm trôi giấc mộng, chìm trong giữa vời
Ta lang thang giữa núi đồi
Xứ người như đã một đời đắng cay
Quê hương xa khỏi tầm tay
Nửavòng trái đất đêm ngày nhớ thương
Sẽ về tìm lại cố hương
Giấc mơ của kẻ viễn phương xa nhà
  

SỢ LỜI GIÓ ĐƯA

Có một chiều- chiều mưa
Bỗng trở thành kỷ niệm
Làm sao quên nhau được 
Buổi ban đầu quen nhau
Có một chiều –chiều mưa
Nhìn em anh bối rối
Ngẩn ngơ anh thầm hỏi
Tình yêu đến bao giờ?
Có một chiều – chiều mưa
Em về anh tiễn đưa
Ngàn câu anh muốn nói
Nhưng sợ lời gió đưa
Rồi một chiều- chiều mưa
Hàng thông chờ lặng lẽ
Mắt nhìn em anh khẽ
Tình yêu thật diệu kỳ.


MỘT CHÚT SUY TƯ

Xa xôi quá ít trở về thăm lại
Saigon bây giờ có còn đẹp như xưa?
Bến Bạch Đằng êm sóng những chiều mưa
Con phà nhỏ vẫn sớm trưa đưa khách?

Đường Lê Lợi ngày đêm còn tấp nập?
Khách tìm vui rảo bước mỗi cuối tuần
Chợ Bến Thành đầy ắp khách du xuân
Thương xá Tax tưởng chừng nơi tiên cảnh

Chợ Lớn đó một góc đời tranh cạnh
Tiền của, bạc vàng, vững mạnh giàu sang
Nhớ ngày xưa Bảy Viễn ngang tàn
Mở sòng bạc, điếm đàng một cõi

Người Saigon quá nhiều trôi nổi
Biến cố nhiều phen, còm cõi chiến tranh!
Giặc Pháp, giặc Anh, Cộng sản hoành hành
Nhưng thành phố vẫn mang danh hòn ngọc

Saigon đó vẫn vươn lên tầm vóc
Hòn ngọc viễn đông danh tiếng một vùng
Nhớ ngày xưa người dân sống ung dung
Dù đất nước không cùng chung ý thức

Xa xôi quá ít trở về thăm lại
Saigon hôm nay chắc hoang dại hơn xưa
Chắc nhiều ổ gà lủng nước trời mưa
Và phố cũ Hàm Nghi thưa người bán?

Có một lần đến hỏi thăm người bạn
Rằng: Saigon nhiều nạn cướp giựt đường
Nạn mãi dâm trổi dậy khắp muôn phương
Trong ngõ hẻm, trên những đường tên tuổi

Saigon bây giờ ít may, nhiều rủi
Dân Saigon buồn tủi triền miên
Cán bộ, công an tham nhũng nhiễu nhương
Cướp sạch của thường dân, còn bắt bớ.


MỘT GÓC ĐỜI

Mùa Đông về, tiết trời sang  trở lạnh
Buốt vào hồn người lữ khách mồ côi
Mười năm xa quê, chết nửa cuộc đời
Thân xứ lạ nổi trôi buồn vận nước!

Em có biết chiều về anh đếm bước
Khoảng xa nào một thuở đã yêu em?
Hoàng hôn buông hoa lá ngủ trong đêm
Anh lặng lẽ cố quên niềm hận tủi

Đôi chúng ta chung mảnh đời trôi nổi
Bị thời gian nhốt trọn một kiếp người
Đời lạc loài, chưa được một niềm vui
Thương biết mấy một góc đời hiu quạnh.

Mùa Đông về, tiết trời sang trở lạnh
Hơi ấm nào đem hạnh phúc em tôi?
Để môi thơm luôn nở những nụ cười
Tình bát ngát như hoa lòng mong đợi…

                ( Lập  Đông 2002)

MƯA CHIỀU
Cuối chiều giữa phố chợt mưa
Xuyên qua kẽ lá hạt thưa hạt dày
Phố phường nhòa với màu mây
Giờ đây mái ngói bỗng đầy âm thanh
Hạt mưa như sợi tơ mành
Mang bao nỗi nhớ duyên lành xa xưa
Em đi mờ lẫn trong mưa
Bỗng da diết nhớ những trưa thơ nồng
Đưa hồn vào cõi mênh mông
Đôi môi quyện lấy hương nồng tình yêu
Mưa chiều phố vắng đìu hiu
Bay bay bụi nước mang nhiều ý thơ.

NHỊP SỐNG MÙA XUÂN

                               Vũ trụ xoay vòng đã đến Xuân
Cuối đông khí lạnh cũng vơi dần
Trên đồi cao vút thông xanh biếc
Dưới núi Đào Mai nở trắng ngần
Chim hót mừng xuân trong nắng đẹp
Giọng ca lãnh lót tợ chuông ngân
Tò mò lũ trẻ tìm nghe ngóng
Quên cả thời gian gõ nhịp chân
Ai vẽ hoa Lan trên giá bút
Phụ đề tuyệt trác mấy đường văn
Vườn hoa đôi bướm đang âu yếm
Nắng ấm tụ về một góc sân
Tết đến ngàn hoa như lộng sắc
Lã lơi mời gọi khách thi nhân
Thả thuyền thơ hội về muôn hướng
Trao đổi văn chương họa mấy vần
Hòa với ngàn mây thay sắc mới
Chan hòa nhịp sống giữa mùa Xuân…

NIỀM ĐAU

Xin trả tôi về niềm đau thương vô tận
Những tế bào rời rạc níu thịt da
Cho tôi quên vùng ánh sáng xa hoa
Đêm trụy lạc xót xa hồn hoang thú
Xin trả tôi về vùng cay sâu buồn tủi
Chôn tình yêu gào thét tấm băng trinh
Cho đêm đen sâu xé gọi bình minh
Và đất chết đem hồn về địa ngục
Xin trả tôi về với niềm tin cội phúc
Để cho hồn chợt tỉnh cõi ăn năn
Trong trầm luân tìm nẻo thoát vĩnh hằng 
Cửa Phật- Pháp giải oan đời khiên  nghiệt.

NỖI  LÒNG

Anh ngu dại để rơi vào sa ngã
Anh mềm lòng để tự hủy chí trai
Anh nương tay để tự giết ngày mai
Để bóng tối xua ngay vào đất lạnh
Một phút lỡ lầm ngàn năm ôm hận
Sống muôn đời trong hờn tủi tối tăm
Hởi người yêu! Người cùng sống trăm năm
Sao cứ để lỗi lầm vào truyền kiếp?
Em có thấy mặt trời đang rên xiết 
Em có đau từ từng thớ thịt rung
Sao em còn tư tưởng ung dung?
Trong cuộc sống thủy chung ương nghịch
Đã đến lúc em cần nên thanh lịch
Cần văn hoa trong xử thế hằng ngày
Sống với nhau mà không có ngày mai
Em đừng nhắc tương lai chi thêm nhục.
Em phải biết:
Trong cuộc đời, anh là người vô phúc
Đã sinh nhầm trong thời đai chiến chinh
Được sinh ra, nhưng chẳng thấy bình minh
Có tình cảm, mà nghĩa-tình xa vắng
Trong tình yêu anh còn đang vươn nặng
Tình quê hương, tình bạn với tình em
Ôm suy tư về rũ gọi đêm đen
Anh khoắc khoải mong em về chân lý
(Những tháng năm dài bên cuộc tình vụn vỡ)

QUÊ HƯƠNG TÔI

(Trước năm 1975)
Quê hương tôi
Tây Ninh
Nắng cháy da người
Mùa Đông đốt đồng vui
Xuân về vui với Tết
Người người rộn rả cười
Quê hương tôi
Tây Ninh
Tòa Thánh đất địa linh
Núi Bà vang danh mãi
Năm tháng chứa bao tình
Dòng sông Vàm Cỏ Đông
Quanh năm nước trôi dòng
Đem niềm vui rưới khắp
Nhà nông với ngư dân
Quê hương tôi 
Tây Ninh
Thôn xóm rất đẹp xinh
Tre làng nghiêng cánh lá
Chào đón buổi bình minh
Trai gái dưới trăng vàng
Đệm, chiếu trãi đôi đàng
Cùng hòa ca xướng hát
Niềm vui đầy chứa chan

( Sau năm 1975)
Quê hương tôi
Tây Ninh
Giờ đây hết chiến chinh
Nhưng giặc đói rập rình
Hàng triệu người di tản
Người dân sống điêu linh
Trẻ thơ thiếu vắng cha
 Bán từng tấm vé số 
Thay cha nuôi cả nhà
Quê hương tôi
Tây Ninh
Người,vật cũng chịu chung
Một cuộc đời khốn khổ 
Cùng phương hết vẩy vùng
Núi Điện buồn trên cao
Du khách những năm nào
Có thèm về thăm lại?
Dù hứa sẽ chờ nhau!
Quê hương tôi 
Tây Ninh
Giờ đây hết đẹp xinh
Người ở cùng với đất
Khuôn mặt đầy rám nắng 
Mang nhiều nỗi bất bình




RỒI BAO GIỜ

Rồi bao giờ em trở về thực tại
Để cho rừng, và biển họp màu xanh
Cho con người xa cuộc sống đấu tranh
Quên hành động giựt giành ham  chém giết
Em có thấy mặt trời đang rên xiết
Sao em mãi còn khuất diện u mê
Bốn nghìn năm con nước dội vọng về
Tổ quốc đó, ôi quê hương bất diệt
Rồi bao giờ em nằm xuôi vĩnh biệt
Đưa em vào tận nguyệt lạnh hư vô
Tiễn chào em vài nắm đất trơ khô
Và nước mắt bình yên trong lòng đất 
Em sẽ hiểu vì sao là cuộc sống
Aáp ủ đầy từng thớ thịt quê hương
Chừng ấy đó, em không còn mạch sống
Đã chết bao giờ chẳng trọn yêu thương.
                            




RU TÌNH

Xin ru ai trọn cuộc tình
Cho mây trên núi tụ hình đôi ta
Môi ai muôn thuở nở hoa
Nụ hôn tôi gởi đậm đà hương yêu
Ru ai tôi đã ru nhiều
Mùa thu lá đổ muôn chiều xót xa
Mắt ai xanh thẳm ngọc ngà
Cho tôi giấc ngủ mặn mà biển xanh

 ( San Jose, mùa Thu 2002)


                               SỢI TÓC 
                               Anh thấy sợi tóc trắng
Trên đầu em còn xanh
Một hai sợi - nhiều lắm!
Nào ai nhổ cho em?
Anh nâng niu đầu em
Trong giấc mơ kiếp trước
Hãy quên đi buồn bực 
Hãy ngủ trên vai anh

Rồi những sợi tóc đen 
Sẽ thay cho sợi bạc
Bàn tay anh dịu mát
Tìm và cất dùm em

Thời gian dù có cánh
Sẽ không rũ đời ta
Trong vô tận bao la 
Sợi tơ lòng vương vấn 

Mưa nắng không phai ánh
Ngày cũng như đêm dài
Thương lắm mái đầu ai
Yêu suối tóc trang đài.


THẦM LẶNG

Nhiều năm rồi anh thường nghe em nói
Những địa danh anh chưa đến bao giờ
Anh ngưỡng mộ đất nước mình xinh đẹp
Cảnh sắc quê nhà em tả trong thơ
Yêu biết mấy Vũng Tàu, nơi em lớn
Có sóng rì rào thầm gọi yêu đương
Bãi Tầm Dương hoàng hôn xuống phủ sương
Và đồi cát che thân loài nhông biển
Trong thơ em viết về thời chinh chiến
Quê hương em ghi dấu cuộc hải trình
Tìm tự do của hàng triệu dân- binh
Trên những chiếc tàu hải quân vĩ đại
Quê hương em đã một thời nếm trải
Bao nỗi đau thương của những dân chài
Suốt cả đời người chẳng biết tương lai
Mong manh một chiếc thuyền chài trên biển
Quê em đó có biết bao kỷ niệm
Những tình nhân thề thốt trước Phật đài
Nguyện trọn đời chung thủy chẳng hề phai
Dù biển có đổi thay nhiều hình dạng
Vũng Tàu đó quê em càng  xứng đáng 
Một địa danh trong địa lý nước nhà 
Người xứ Vũng Tàu thầm lặng kiêu sa
Có một xứ sở đậm đà hương sắc.



THIÊN ĐƯỜNG TÌNH YÊU

Cái ngày hai đứa giận nhau
Bầu trời tối xẩm đượm màu thê lương
Nỗi buồn kéo đến muôn phương
Bên nhau mà chẳng vấn vương ân tình
Tại em hay bởi do mình
Chắc tại trời đất thình lình nổi giông
Để sương tuyết phũ chiều đông
Đem bao giá lạnh vào lòng nguời thương
Nhìn nhau bao nỗi chán chường
Nhưng tình thơ mãi còn vương trong hồn
Tuổi đời xấp xỉ  hoàng hôn
Thân thiện không được cũng đừng hờn nhau
Đời ta nhiều nỗi đớn đau
Đời em cũng đã đượm màu tuyết sương
Chúng mình đã trót yêu thương
Hãy nên giữ mãi thiên đường tình yêu.


THƯƠNG HOÀI QUÊ HƯƠNG

Bạn đã đi thật xa
Biết bao giờ trở lại
Để cùng tôi hái trái
Xoài đầu mùa chua ngon

Cầm lá thư cỏn con
Bạn viết lời từ biệt
Những chữ nhòe mực viết
Nét vội vàng không ngay

Chẳng còn tay cầm tay
Lối qua dòng nương nhỏ
Bụi tre già đầu ngỏ
Nơi hò hẹn chúng mình

Tiếng chèo ngoài mé kinh
Làm xao cành dừa nước
Tiếng trẻ con bắt chước
Ngồi đọc bài nghêu ngao

Giờ này bạn nơi nao?
Có nhớ về bè bạn!
Nhớ đường qua mỗi sáng
Để thương hoài quê hương.


TIN XA

Tôi lén mở đài hải ngoại nghe
Một làn sóng điện thấp thoảng xa
Phát tin Đề Đốc Hoàng phục quốc
Thông điệp đầu năm gởi nước nhà.

Tôi vội mừng lên lấy viết ra
Ghi nhanh tốc ký tin vừa qua
Ông Hoàng vừa mới thành lập đảng
"Thống Nhất Quốc Gia" bên xứ xa

Mượn làn sóng điện tầng số xanh
Thông điệp đầu năm ông chúc rành
Trước thềm năm mớixin kính chúc:
Dân tộc Việt Nam được phước lành

Tiếp bài nói chuyện ở phương Tây
Oâng hứa với dân có  một ngày
Kéo quân về phá tan xiềng xích
Giải phóng quê hương khỏi độc tài

Ông cũng còn hứa sẽ về Nam
Cùng với đồng bào chia nỗi đau
Mười năm cay đắng buồn cơn nước
Thắm nghĩa keo sơn với đồng bào

Mọi người cố gắng đợi chờ hơn
Nhất chí, nhất tâm dạ chẳng sờn
Kiên lòng ẩn nhẫn chờ tin thắng
Bay khắp mọi nơi cả giang sơn

Mong một ngày đất nước bình yên
Tự do dân chủ khắp ba miền
Quê hương sông núi đầy hoa mới
Dân tộc cởi đi mọi ưu phiền.
( Saigon mùa thu 86)


VẤN TỘI 


Người chết rồi ư Hồ Chí minh?
Sao không sống dậy để mà nhìn
Bao nhiêu tội ác người gieo rắc
Cho khắp nhân sinh, chết tội tình

Chủ nghĩa người đem vô nước Nam
Giết dân tộc Việt thật dã man
Luân thường, đạo lý đều tan nát
Kẻ sống còn thua thú trên ngàn

Tội ác nhà ngươi trời chẳng tha
Diêm vương móc họng, cắt lưỡi ra
Dìm ngươi xuống hố hầm huyết phẩn
Để thấy huyền vi vay, trả là.

Ta biết nhà ngươi vốn chẳng tin
Huyền vi mầu nhiệm của thần linh
Tại sao khi chết ngươi còn trối?
Gặp lũ Mác, Lê, dưới huyệt đình.

Ngươi trả lời đi cái tội lừa?
Lừa dân,lừa nước, lừa mọi người
Ngươi lừa đảng phái đem tiêu diệt (1)
Tôn giáo nhà ngươi cũng chẳng chừa!

Ngươi giả bộ như trai chính chuyên
Không con, không vợ, không nợ duyên
Với người phàm tục nơi trần thế 
Che mắt nhân gian để độc quyền

Thực tế nhà ngươi là Quỉ Vương
Dâm ô, thú tính đáng khinh thường
Bao nhiêu con gái Kinh hay Thượng
Ngươi cũng tìm phương gây nhiễu nhương.

Tội của nhà ngươi cao ngất trời
Núi, sông, biển cả hận muôn đời
Người dân nước Việt :Nam, Trung, Bắc
Lôi xác ngươi lên để trả lời.

(1) Các đảng phái quốc gia (VNQDĐ, ĐVQĐ…)


XUÂN THẦM


Chợt nhìn nắng đổ trên cao
Anh ơi có thấy má đào nơi em?
Mùa xuân sắp bủa quanh rèm
Ngoài sân lũ bướm vờn kèm hoa xuân
Thẹn thùng môi khẽ ngập ngừng
Cho em ánh mắt nửa chừng tuổi yêu
Phập phồng lo sợ trăm chiều
Con tim nhỏ bé ít nhiều đau thương
Xuân sang tuổi mộng tình vương
Em như hoa thắm trong vườn chờ ong
Tuổi hồng phận gái ước mong
Mơ cho cánh bướm kết vòng nhụy hoa
Nhưng sao tình vẫn còn xa
Bướm ong không ngỏ hoa đà ủ ê
Nắng cao đổ xuống đường về 
Bao nhiêu thất vọng tái tê quanh người
Xuân vui, người vật nhộn vui
Nhưng lòng em vẫn ngậm ngùi xót xa



XUÂN VÀ NIỀM NHỚ

Ước gì được chút mưa xuân
Nơi quê hương mẹ ngàn trùng xa xôi
Cho con tắm gội tuổi đời
Gợi bao nỗi nhớ một thời hoa niên
Xuân về xứ lạ cô miên
Nỗi lòng viễn khách đảo điên tâm hồn
Tuổi xuân ngấp nghé hoàng hôn
Làm sao còn sức trả hờn quê hương?
Đất mẹ rơm rạ còn vương
Cánh đồng lúa chín,con đường vào thôn
Đêm Xuân chuông mõ gõ vồn
Câu kinh cầu nguyện chiêu hồn trận vong
Xuân nay quê người long đong
Kiếp con tầm gởi đợi mong ngày về
Xốn xang một sớm nhớ quê
Xuân trên xứ lạ tái tê lòng này!

        (Xuân đất lạ 2003)

TUỔI HỌC TRÒ

Mắt nhìn vào tấm bảng đen
Và viên phấn trắng thân quen vô cùng
Bàn tay cô giáo bao dung
Gieo mầm xanh trái tim rung nghìn lời
Em ngồi ngoan ngoãn im hơi
Nghe cô giáo giảng những lời văn thư
Giọng cô giáo nói ngọt ru
Chim nghe chim cũng gật gù "đọc" theo
Mây vào cửa lớp trong veo
Trống trường thanh thãn còn reo mỗi ngày
Kìa em bụi phấn còn bay
Tóc cô giáo trắng màu mây sân trường
Mùa thu trời đất ướp hương
Mùi thơm rợp cả con đường em qua
Ai thấp lửa để cho hoa
Gọi mùa hạ đến để mà tặng em?
Tan trường bươm bướm bay lên
Những tà áo mới hồn nhiên bước về
Nhớ lời cô giảng say mê
Mồ hôi ướt sợi tóc thề cô ơi!
Giọng cô em uống từng lời
Những năm trung học bầu trời rất xanh…

( Kỷ niệm những năm học lớp 9&10 với cô giáo 
Nguyễn dạy môn Sử Địa trường ĐĐHĐ)

MỘT KIẾP NGƯỜI                             

Hết rồi chú út ơi!
Một thời bay nhảy đôi nơi
Giờ chỉ còn nắm xương tàn cốt rụi
Dưới ba tấc đất – nghìn  thu
Nhớ thuở còn thơ
Anh em mình bắt dế đá ngoài đồng
Chú dùng tay đè con dế chết
Anh giận vì nghĩ đến công đào
Đánh chú một bốp tay
Chú khóc lớn, anh sợ người dị nghị 
Nên năn nĩ, hứa tìm con dế khác
Chú nín khóc, nhưng đòi về méc má 
Anh sợ bị đòn nên mua kẹo cho chú ăn
Chú cười nói con dế than lớn quá 
Nó chết rồi uổng thật anh Một ơi (1)
Nhớ những năm, tháng chú còn đi học
Ở trường làng thầy giáo bắt quét sân
Chú chống đối không thèm cầm chổi 
Thầy Hiệp rầy, chú bỏ chổi lìa sân (2)
Chú lễ phép: "thưa thầy má em cho đi học"
Vì cớ gì thầy lại bắt quét sân
Rồi từ đó không thèm đi học nữa 
Còn lại mình anh, đèn sách một mình thôi
Hai mươi mấy năm vận nước đôi nơi
Khi kết họp anh em mình thay đổi
Giờ xa quê nhớ một thời trôi nổi 
Chú không còn trên cõi trần gian
Nén nhang đốt vái hồn em 
Phiêu diêu cực lạc niết bàn an ngôi.

(1) Ngôi thứ gọi trong nhà
(2) Thầy giáo Lê văn Hiệp


DÒ DẪM


Chỉ còn mười hai giờ nưã thôi
Là anh trở lại xóm em rồi
Con đường đất nhỏ trơn trơn ướt
Chân bước rung rung, tim bồi hồi.

Sao nhà em ở quá xa xôi
Ngõ vắng xôn xao cả cuộc đời
Cho anh dò dẫm tình yêu đến 
Trăn trở một đời trai em ơi.

Có phải nơi đây gởi cuộc đời?
Tình người em nhỏ cuả lòng tôi
Xin cho một phút tim ngừng nói
Chết lịm hồn anh đúng nghĩa rồi.



KỶ NIỆM


Rồi về Tây Ninh giữa trưa hè nung nắng
Nghe rát bỏng đôi chân 
Hồi tưởng lại buổi thiếu thời
Ngày hai buổi đến trường
Học thêm giữa trưa hè nào ấy
Tuổi mười lăm hồn nhiên lắm ai ơi
Những lúc rong chơi dăm ba đứa ngoài trời
Trần trục dưới mưa- ôi một thời trẻ nhỏ
Rồi thắm thoát thời gian len vào ngõ
Tuổi mười lăm- ai dễ biết thẹn thùng
Chiều hạ về ai xoã tóc ung dung
Giờ cúi mặt- đếm từng bao kỷ niệm




HỒN CHẾT

Với niềm đau anh xin dâng người vợ
Nỗi u hoài khoắc khoải gọi tình thơ
Ba mươi năm hồn đã chết trong mơ
Em có biết hình hài anh trơ trọi
Trong ngục tù anh hằng mong gặp lại
Để cùng chia niềm tủi nhục vương mang
Những niềm đau lòng mãi lo toan
Anh nuốt nhục đắng cay trong đời sống.


TRẢ LẠI NIỀM ĐAU

Xin trả tôi về niềm đau thương vô tận 
Những tế bào rời rạc níu thịt da 
Cho tôi quên vùng ánh sáng xa hoa
Đêm trụy lạc xót xa hồn hoang thú
Xin trả tôi về vùng cay sâu buồn tủi
Chôn tình yêu gào thét giữa hoang mông
Thuở vào yêu cơn sóng biển ngập lòng
Tim tan nát đợi trông ảo ảnh




GÓP LẠI VẦN THƠ

Anh về góp lại thư em
Sao trời giăng mắc bên rèm dậu thưa 
Em đi vào thuở còn mưa 
Ngoài sân bong bóng lưa thưa phập phồng
Hôm nay em đã theo chồng 
Như chim vào lồng như cá mắc câu.(1) 
Cá mắc câu biết đâu mà gỡ 
Chim vào lồng biết thuở nào ra 
Năm năm tròn chẳng xa nhà 
Không gần cha mẹ ông bà người thân
Bên chồng âu yếm ân cần 
Thương cho anh khổ một lần ra đi
Biên cương rừng núi xanh rì 
Lằn tên mũi đạn xá gì thân trai
Từ xưa cho đến hôm nay
Ra đi chinh chiến mấy ai trở về 
Xin em em nhớ lời thề 
Vần thơ ngày trước trả về cho anh
Đêm nay thổn thức thâu canh
Con chim mất bạn trên cành kêu đêm
(1) Ca dao Việt nam.

 CA MỔ THỨ HAI

Thứ hai rồi ta vừa lên bàn mổ 
Trên chiếc xe bàn bốn bánh nhựa nằm im
Ta không còn biết thế nào là di động
Máu loãng dần theo nhịp đập buồng tim
Thứ hai ấy thần kinh ta bấn loạn
Khi tai nghe từng loạt kéo kềm khua
Âm thanh dài hơn tiếng sấm lúc trời mưa
Buồng phổi nhỏ hấp thưa dần khí dưỡng
Ta nằm đấy nghe cõi lòng hồi họp
Vì một cánh tay vừa bị cột vào cây
Xung quanh ta sáu bảy tám bàn tay
Vừa rửa sạch chuẩn bị ngay vào việc 
Ta nằm đấy hồn như tiễn biệt 
Xác thân rồi muôn việc ngừng thôi
Chỉ còn trơ một phách lạc chơi vơi
Ru ta ngủ một đời bệnh hoạn.

TIỄN BIỆT

Đưa tay chào tiễn biệt
Hình ảnh một người  thương
Nước mắt bỗng rưng rưng
Ôi sao đời ngang trái
Xe nổ máy vẫn ngừng 
Hành khách chẳng bâng khuâng
Chỉ riêng mình hồi họp
Lòng đau từng cơn sót
Như xé bức thịt da
Vì tình yêu chúng ta
Nên anh thành mất trí 
Tim hồi hộp rên rỉ
Mắt dõi ngóng người đi
Lòng ai có nghĩ gì?
Cho tình người ở lại
Một lần yêu hoang dại
Chết cả nửa đời xuân 
Và nước mắt bỗng dưng
Chảy dài lên đôi má 
Người ơi duyên xưa đã
Chẳng được cùng với người
Thì chỉ thế mà thôi
Cúi đầu chào dĩ vãng
Hiện tại đã mất rồi
Người tình ơi tình ơi!.


ĐÀNH PHẬN

Bây giờ ta xót thương em
Mùa xuân chưa dứt lòng thêm não nề 
Ra đi ngàn dặm sơn khê
Tình vươn còn đó ngày về nát tan
Lòng đau nhiều nỗi đa đoan
Vì ai lắm cảnh đoạn trường tình yêu
Rằng em vì hiếu bao nhiêu
Thì đời em phải trăm chiều khổ đau
Tiễn  chào nước mắt  cho nhau
Xót cho tình lỡ má đào héo hon
Phải chăng duyên số vẫn còn
Duyên tiền kiếp trước thề non cùng người
Ta về ôn lại tình vui
Dù thời gian đã không nguôi chuyện mình
Ta thương phận gái lênh đênh
Một lần quyết định trăm nghìn đắng cay
Ta khuyên em nghĩ ngày mai
Gia đình danh dự hôm nay họ hàng
Tình chia dù khổ ta mang
Ta mong em hãy sống an với chồng
Rồi đây nghìn dặm ruỗi dong
Ta mang hình ảnh vào lòng nhớ thương
Ngày sau dù có thê lương
Ta nguyền giữ mãi dư hương ân tình



THƯƠNG XÓT


Nửa mảnh hồn xuân anh gởi em
Cho lòng chinh phụ nặng niềm riêng
Mùa Xuân đã đến quanh rồi đó
Sao cuộc tình sầu chửa ấm êm.

Anh biết đời em lắm đoạn trường
Chữ tình chữ nghĩa quá thê lương
Một  ân một hiếu lòng chưa đoạn
Trọn vẹn cho tình lỡ nghĩa thương.

Em đã đi qua mấy cuộc sầu
Nhịp cầu thứ nhứt chẳng về đâu
Nhớ duyên mai, trúc tình không vẹn
Thở vắn than dài một nỗi đau.

Nhịp khoảng thứ hai mới bước vào
Sầu thương lẫn lộn giữa ba đào
Chữ yêu chưa định trong tâm tưởng
Tình đã vội vàng trót gởi trao.

Anh vẫn thương em chở cuộc đời
Dù thuyền bị sóng giữa xa khơi
Cho anh xin  được làm phao  nhỏ
Vớt hộ thân em giữa sóng nhồi

Dù biết ngày mai có đổi dời
Thuyền em lạc lỏng giữa bến đời
Anh xin làm một con chim báo
Hướng dẫn cho  thuyền đi đến nơi.

Em có quyết tâm lái cuộc đời?
Qua ghềnh qua thác khỏi ngàn khơi
Tìm về nguồn sống cho mơ ước
Thì hãy kiên gan chống chuyện đời.

Đừng sợ cô đơn đừng nghĩ nhiều
Vì rằng hai đứa đã cùng yêu
Thì không mãnh lực nào ngăn nổi
Sức mạnh tình yêu đến trăm chiều.

Dù phải phơi thây trước đối thù
Thì thân xác đó chỉ phù du
Không ai tránh khỏi vòng quy luật
Sanh, tử do trời  chuyện ngàn thu.


TIÊM THUỐC

Đừng nhấn nữa, cô ơi người y tá!
Để tế bào hòa họp với xương  da
Cho thời gian đủ sức xóa nhòa 
Vết kim lục trên thịt da người bệnh(1)
Đừng nhấn nữa, cô ơi – người bệnh!
Hết hơi rồi tàn sức bởi đường kim
Chân tê bại buồng tim như rỉ máu
Nỗi đau nhoài cường bạo cắt làn da
Cô ơi cô người y tá nước nhà
Tiêm nhè nhẹ "tình ruột rà nhân loại".
(1) Sau năm 75, không có kim chích thuốc 
người hành nghề thầy thuốc phải sử dụng kim mài.

MƯỜI NĂM TRÔI DẠT

Đã mười năm qua
Sống xa nhà xa mẹ
Trôi dạt phương trời 
Viễn xứ lênh đênh
Đêm Tây ninh, rừng Dương Minh Châu buồn tủi
Kiếp đọa đày lầm lủi đốt than
Mượn tình thương qua thú đi hoang
Xuân nhớ mẹ mang mang niềm quốc hận
Rồi xuôi ngược miền trung nghĩa nặng
Thuận Hải chiều buồn nhìn sóng bạc đầu dâng
Như tóc mẹ trắng ngần trong chờ đợi
Mười năm chẳng chân lê trên đất lạ 
Phú Quốc trời buồn từng đợt sóng đưa mây
Sáng sớm Bình Tuy, chiều lại Dầu Giây
Chuyến xe nhỏ bỏ lại đây bao niềm nhớ
Minh Hải, Cần Thơ, Long Xuyên, Chợ Mới
Đất hữu tình ươm ngọn lữa tình yêu
Châu Đốc, kiên Giang vùng đất phì nhiêu
Đang sừng sựng với trăm chiều sóng gió
Ở nơi đây cùng ai nhiều gian khó 
Suốt một phần đời gắn bó kỷ niệm xưa
Đêm ba mươi sáng mồng một tiễn đưa
Đôi mắt ấy giữa Tết trưa hoen dòng lệ
Lên xe đi ai bùi ngùi bảo thế?
Chỉ giọt nước mắt buồn làm bằng chứng tình yêu
Giã từ nhau xuôi về tận miền cao
Đắc Lắc, Di Linh năm tháng sầu đất đỏ
Con đường bụi đưa nhau vào trăm ngõ 
Trở lại Tây Ninh đời lắm phong trần 
Xin gởi nhau lời xúc động phân vân 
Những quá khứ hiến dâng cho hiện tại
Mười năm qua, bỗng thành người điên dại
Sự chờ trông khoắc khoải nỗi yêu đương
Suốt mười năm năm, tủi nhục đau thương
Xin chia sẽ kiếp tha phương lãng tử.

 MẶC CẢM      

Tôi biết em là người hay mang nhiều mặc cảm
Nên tôi đùa rồi để nhìn khuôn mặt làm vui
Khi em khóc tôi lại cười thấm ý
Cho nỗi buồn dâng hẳn trên làn mi
Là lúc đó hồn tôi như mộng mị
Đưa tình yêu tột đỉnh đến nghĩ suy
Em khóc nhiều đi cho tôi vui trăm lối
Tôi cười nhiều để mở nỗi yêu thương
Càng giận anh, anh cảm thấy thích hơn
Đôi má ướt đôi mi tròn sương gió
Em buồn lên để trăng sầu đây đó
Ngõ vào yêu anh vò vỏ đợi đây
Quanh đôi ta là chăn gối bao vây
Bắt ta phải rũ dài trên nhung lụa
Và êm ấm kể từ đây muôn thuở
Môi ấm nồng tràn trụa đưa hương
Tỉnh giấc rồi ta vẫn mãi vấn vương
Một lạc thú thiên đường trên trần thế 
Em mở ngõ đến vụng về ngôn ngữ
Anh cỡi lòng không còn giữ bí truyền
Bởi vì đâu ta lại phải trao duyên
Vì mặc cảm triền miên em đó
Thôi từ đấy, sanh mong em từ bỏ
Nỗi buồn vui từ tận đáy lòng em
Hãy nhìn đời bằng cuộc sống bình yên
Cho giấc ngủ khỏi ưu phiền trằn trọc.


             
MỘT THOÁNG HƯƠNG YÊU


Tôi viết bài thơ gởi cho em 
Một người con gái thoáng hương duyên
Hôm nao bỗng gặp trên cùng tuyến
Thành phố, Tây Ninh chứa vạn niềm

Xe chiều đưa khách vội bâng khuâng
Từøng cánh đồng xanh xa khuất dần
Nẻo phố người quen đêm di bước
Mà mãi chưa về với ước mong

Ai hiểu tình ai trong phút giây
Thoáng trong ký ức của hôm nay
Tình em gái nhỏ vùng tỉnh lẻ 
Tây hạ chiều về bụi cát bay

Nói chuyện cùng em trên chuyến xe
Hồn tôi nghèn nghẹn bởi còn e
Mùa thu sắp đến quanh rồi đó!
Mà chửa làm sao hết vạn sầu

Hởi người em gái đất Tây ninh
Sông Vàm, núi Điện vẫn lặng thinh
Để nghe tôi nói lên tình cảm
Tình cảm yêu thương của chúng mình

Rồi biết bao giờ tôi được nghe
Tình yêu phúc đáp gọi trăng sao
Ngày về Thành phố mang mơ ước
Góp nhặt thương yêu ấp ủ vào

Nếu một ngày mai trong phút giây
Bình minh xua đuổi đêm tan mây
Tôi xin làm một con tàu nhỏ
Chở khách hữu duyên đến mọi miền.

TÌNH ANH EM

Nghe chú bệnh anh bàng hoàng xúc động
Ba mươi mấy tuổi rồi, mới nghĩ chuyện anh em
Cha mất sớm chú hãy còn quá nhỏ(1)
Anh mới vừa tròn cái tuổi thiếu niên
Mẹ lặn lội nuôi chúng mình qua bom đạn
Chị âm thầm dưới lớp áo nông dân 
Nhớ thuở xưa chú còn đi học 
Vừa đến trường thầy giáo bắt dọn sân
Chú bướng bỉnh ngang nhiên đòi thôi học
Vì cớ gì thầy lại bắt quét sân?
Rồi lại ngày qua chú lớn dần trong tình mẹ 
Tình chị, tình anh với cơm gạo quê hương
Hai mươi tuổi mới tập tềnh vào xã hội
Bước vào đời chưa hiểu nổi thế tình
Anh thời đó không nghĩ gì về cuộc sống
Cứ con đường học vấn trường thi
Rồi thời gian như cơn lốc cuốn đi
Anh lại phải tham gia vào quân đội
Chú vẫn còn ngược xuôi lặn lội
Nuôi mẹ già cùng người chị cô đơn
Mười năm qua với cuộc sống muôn phương
Sớm Hà Nội, trưa Kon tum, chiều thành phố
Qua xứ người Cao miên rừng rú
Chí lập thân chú chọn một đường đi
Thương anh em đồng bạn cố tri
Chú thường giúp họ về kinh tế
Nghe chú bệnh lòng anh buồn vô kể 
Góc núi chân rừng mệnh hệ ai hay?
Sống cuộc đời nay đó rày đây
Cầu sức khỏe chú mau bình phục.
(1) chú: để chỉ người em trai


MỘT THOÁNG BÂNG KHUÂNG (*)


Đôi phút ngỡ ngàng đến trong em
Cho lòng vương vấn chữ tơ duyên
Đó đây ai hẳn là hiểu thấu
Ngơ ngẩn trong tim vạn nỗi sầu

Chuyến xe hôm ấy chở bâng khuâng
Một nỗi bâng khuâng lớn lớn dần
Biết bao mộng tưởng thêm chín đỏ
Ray rứt bao ngày một chữ ân!!!

Ai nghĩ về ai trong phút giây
Phút giây gặp gỡ giống sum vầy
Như bao xa cách giờ tương ngộ 
Hạt cát reo mừng cũng chớm bay

Làm sao quên được một chuyến xe
Nhìn anh muốn nói nhưng còn e
E anh chưa phải là tri kỷ
Vì mấy khi “tri kỷ dễ tương phùng”

Em là cô gái đất Tây Ninh
Muốn nghe anh nói nên lặng thinh
Vậy anh hãy nói lời chân thật
Chỗ đứng của em, giữa ân tình

Để đến hôm nào em được nghe
Nghe anh kể chuyện một chuyến xe
Chuyến xe duyên nợ mang hai đứa
Đã trọn yêu thương giữa chiều hè 

Bên anh xao xuyến những phút giây
Một thoáng hương thề nguyện đắp xây
Em nghe hạnh phúc vây quanh lối
Hoa bụi vui cười loáng thoáng bay.
* NTHD ( Đáp lời bài" một thoáng hương yêu")

XUÂN SỚM (1)

Phong tục Việt nam đã đổi rồi
Thôn quê thành thị cố vui chơi
Để mừng xuân sớm hơn thời tiết
Ất Sửu năm nay “cách mạng đời”

Con hãy nhìn Ba vui lên đi
Cho tan tròn cái tuổi thiếu nhi
Cho Ba không khỏi buồn suy tính
Xuân sớm năm nay, họ ý chi?

Họ muốn làm cho khác cổ truyền
Khác Tàu ,khác lệ, khác thiên nhiên
Chứng minh văn hóa hay của Mác
Cùng với Lê Nin diệt tổ tiên

Hàng mấy nghìn năm tục ông cha
Vào xuân là phải theo tháng ta
Nay ôi cái tục không còn nữa
Còn nghĩ gì đâu chuyện Tết nhà
(1) Tết Aát Sửu năm 1985 lần đầu tiên
Cộng sản sửa lại không nhuần theo cổ truyền.

KHOẢNG VẮNG

Anh hôn vầng trăng để nhớ em
Đêm về nằm mộng thấy thương thêm 
Một tâm hồn lẻ nơi miền vắng 
Sóng, nước, trời, mây nhớ bạn hiền 
Em ngoài kia đó có vui không?
Chắc cũng buồn như ai xé lòng!
Gương không thèm gọi gương mặt ngọc 
Khoắc khoải cô phòng bởi ngóng trông
Mai về phố nhỏ để tìm em
Hạnh phúc thần tiên đến quanh thềm
Đôi ta là cánh chim hoàng yến
Đối diện kề môi nói chuyện yêu.


ANH MUỐN BẢO EM

Anh muốn bảo em nói chuyện tình
Tình yêu hai đứa thật trung trinh
Như đôi Hoàng Yến bay trong nắng
Kêu thật là hay chuyện chúng mình.

ĐÊM THU NHỚ LẠI

Đêm thu về lòng bỗng nhiên se lạnh
Giữa phố buồn hiu hắt ngọn đèn khuya
Bước chân đi lòng những muốn nhớ về 
Nơi đất mẹ một khoảng trời hiu quạnh

Quê xứ núi nhớ những ngày vạch lá
Bắt ốc hương trong hốc đá chùa Hang
Không nước uống cả đoàn người khô khát 
Trẻ em nằm dưới trời nắng chang chang

Miệng há hốc phì phò hơi nóng rát
Trong phổi khô hơi thở nhạt nhẹ nhàng
Một đời người, một kiếp sống lang thang 
Với rừng núi bạt ngàn không tên tuổi

Đêm thu về nơi xứ người buồn tủi
Nhớ quê hương tàn rụi với thời gian
Quê xứ núi trăng vàng soi rừng thẳm
Chưa bao giờ ta một thuở về thăm

Trưa thu đến ta nằm trên phiến đá 
Dưới gốc da gần phần mộ cha già 
Học thơ mới chuẩn bị ngày thi tới
Mộng lãng du ta tung cánh chim trời

Người xứ núi đổi dời theo cuộc chiến
Ta cũng như người biền biệt xa quê
Bao mùa thu, bao nỗi nhớ vọng về 
Đau lòng lắm! Tái tê thân viễn xứ.

                                 ( Đêm Thu 03)